1. Nguồn gốc lịch sử
Về nguồn gốc lịch sử của người Rơ Măm, nhìn chung chưa được các nhà khoa học xác định rõ, chỉ biết tộc người này đã có mặt ở Việt Nam từ lâu.
2. Dân số:
Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019: Tổng dân số 639 người, dân số nam: 317 người; dân số nữ: 322 người. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn: 88,4%.
3. Phân bố địa lý:
Trong lịch sử, những năm đầu thế kỷ XX, dân số Rơ Măm còn tương đối đông, phân bố rải rác trong 12 làng xen lẫn với người Gia-rai ở tỉnh Kon Tum. Trải qua nhiều biến cố, nay chỉ còn một làng với dân số ít ỏi ở nơi tiếp giáp Việt Nam - Campuchia, thuộc huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.
(Ảnh: THÀNH ĐẠT) |
4. Ngôn ngữ:
Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Rơ Măm hiện sử dụng thành thạo tiếng nói của nhiều dân tộc, trong đó có tiếng phổ thông.
Giáo dục: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019: Tỷ lệ người Rơ Măm từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông: 80,0%; Tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học: 106,1%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở: 77,1%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông: 58,3%; Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường: 15,7%.
Người Rơ Măm ở làng Le, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy rộn ràng tổ chức Lễ mừng lúa mới. (Ảnh: Báo Kon Tum) |
5. Đặc điểm chính:
Ăn: Tập quán ăn bốc còn tồn tại khá phổ biến vào thời điểm hiện nay. Những ngày lễ tết, hội hè cư dân uống rượu cần chế từ các loại gạo, sắn, bắp...
Trang phục: Trong xã hội truyền thống, đàn ông Rơ Măm mặc khố, phía sau buông đến ống chân. Phụ nữ quấn váy và ở trần, một số mặc áo cộc tay. Váy và khố đều có màu trắng của vải mộc, không nhuộm. Phụ nữ ưa đeo hoa tai làm bằng ngà voi, nứa hoặc gỗ. Nam nữ thanh niên đều cắt 4 hoặc 6 chiếc răng cửa của hàm trên, khi bước vào tuổi trưởng thành.
Nhà ở: Nhà ở là loại nhà sàn dài, cất kế tiếp, xung quanh ngôi nhà chung. Cửa chính của mọi ngôi nhà đều quay nhìn vào nhà rông và nhà ở của các gia đình là khu sân chơi. Quanh làng có hàng rào bảo vệ. Mỗi nóc nhà thường có nhiều bếp. Mỗi cặp vợ chồng ở trong một buồng có vách ngăn, với một bếp riêng. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách...
Quan hệ xã hội: Ðứng đầu làng là một già làng, người cao tuổi nhất trong làng, do dân tín nhiệm bầu ra. Làng truyền thống là một công xã láng giềng. Mọi thành viên quan hệ với nhau dựa trên cơ sở bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Quan hệ xã hội ở đây còn lưu giữ khá đậm các tàn dư của thời kỳ mẫu hệ vào giai đoạn đang chuyển nhanh sang chế độ phụ quyền.
Cưới xin: Lễ cưới được tổ chức đơn giản, chỉ là bữa ăn uống cộng cảm của dân làng để chứng kiến và chúc mừng bữa ăn chung đầu tiên của cô dâu, chú rể. Sau ngày cưới đôi vợ chồng trẻ sống bên nhà vợ 4-5 năm rồi về ở bên nhà chồng hoặc cư trú luân phiên cả hai bên. Việc ly dị rất ít xảy ra.
Đồng bào Rơ Măm ở làng Le (xã Mô Rai, huyện Sa Thầy) đánh cồng chiêng, múa xoang trong Lễ mừng lúa mới. (Ảnh: Báo Kon Tum) |
Ma chay: Người Rơ Măm thường dùng trống để báo tin trong nhà có người chết. Xác chết được đặt ở mặt trước ngôi nhà, đầu hướng vào trong, mặt nhìn nghiêng. Việc chôn cất sẽ được tiến hành vào một hai hôm sau. Các ngôi mộ xếp theo hàng lối sao cho mặt người chết không nhìn hướng vào làng.
Thờ cúng: Người Rơ Măm quan niệm "vạn vật hữu linh", cả linh hồn con người sau khi chết cũng là lực lượng siêu nhiên đầy quyền lực và bí ẩn. Một trong những lực lượng siêu nhiên được người dân thờ cúng nhiều nhất là thần lúa. Họ cúng thần lúa vào ngày bắt đầu trỉa giống, khi lúa lên đòng, trước ngày tuốt lúa... để cầu mong một mùa rẫy bội thu.
Lễ Tết: Ngày lễ lớn nhất thường được tổ chức sau khi thu hoạch mùa rẫy. Sau lễ mừng lúa mới là thời điểm diễn ra hàng loạt đám cưới của nam nữ thanh niên và lễ bỏ mả cho người đã chết.
Người Rơ Măm sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nếp là chính (Ảnh: THÀNH ĐẠT) |
6. Điều kiện kinh tế:
Người Rơ Măm sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nếp là chính, thêm một ít lúa tẻ, ngô và sắn. Trong số những nghề phụ gia đình, nghề trồng bông, dệt vải được chú ý phát triển nhất. Vải họ dệt ra trước kia đủ cung cấp cho nhu cầu mặc của gia đình ngoài ra còn là hàng hoá trao đổi lấy dầu đốt, muối ăn. Hiện nay, nhờ chính sách đặc biệt của Nhà nước, người Rơ Măm đã chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019: 1 số chỉ tiêu về mức sống, việc làm của người Rơ Măm: Tỷ lệ hộ nghèo: 33,3%; Tỷ lệ hộ cận nghèo: 36,4%; Tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh: 94,6%; Tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới để thắp sáng: 98,4%.
● Français: L’ethnie Rơ Măm
● English: Ro Mam ethnic group