Huyện Đức Thọ (tỉnh Hà Tĩnh) ôm trọn dòng sông La là nơi có nhiều di sản và trầm tích văn hóa. Mới đây, Huyện ủy ban hành đề án phát huy giá trị văn hóa, con người Đức Thọ, đã chỉ ra nhiều “điểm nghẽn”. Một trong những nguyên nhân là công tác tuyên truyền chưa hiệu quả, nguồn nhân lực và đầu tư còn hạn chế… Khi mục tiêu tiềm năng văn hóa thành lợi thế trong phát triển kinh tế vẫn còn là một vấn đề “trăn trở” với các cấp ủy đảng và chính quyền thì người dân đã tự vận dụng vốn liếng văn hóa mở ra nhiều hướng đi trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
Làng Hến ở xã Trường Sơn vốn có một cái tên khá mỹ miều ấy là Minh Châu, nhưng cái tên này chỉ dùng trong thần phả thờ thành hoàng làng vốn là một vị tiên hiền làm nghề cào hến. Dân quanh vùng thường cũng chỉ biết đến cái tên làng Hến hoặc “làng trăm nghề”. Điều thú vị là “trăm nghề” của làng này ngẫm vẫn từ con hến. Khoảng hơn 300 năm về trước làng đã làm nghề cào hến rồi. Hến cào lên từ lòng sông sau khi được sàng lọc, ngâm, phơi thì phải nấu trong nước sôi để lấy ruột hến, sau đó ruột hến được ngâm ướp theo yêu cầu khách hàng. Trong quá trình chế biến con hến này sẽ sinh ra một số phụ phẩm ấy là vỏ hến, người dân lại dùng để nung vôi, trong quá trình nung vôi lại sinh ra một phụ phẩm ấy là than củi. Mà than củi lại cần có những sọt đựng từng đó sinh ra nghề đan tre… cứ như vậy người làng làm đủ các nghề, theo một sự phân công, thỏa thuận ngầm giữa các gia đình, dòng họ để rồi trong “chuỗi sản xuất” ấy sinh ra trăm nghề.
Người làm hến hay bị trêu là “số khổ” bởi “ngủ nửa đêm, ăn nửa bữa” gỡ lại có chút sung sướng “một ông ba bà”. Chuyện thực thế này, một người đi cào hến cần có ba người phục vụ và đều là phái nữ, ấy cũng bởi các ông đi thâu đêm, khi thuyền về thì đã mệt lả, các bà phải xúm vào mà phục vụ. Thuyền về, ghé mũi vào bến là các ông có quyền nhảy phắt lên bờ về thẳng nhà leo giường ngủ; việc neo, việc chống, việc sàng, việc đãi, chế biến, bán buôn giao các bà lo cả. Cào hến nói chung không phải là nghề khó, thế nhưng cào hến trên lòng sông thì phải có bí quyết mới làm được, từ cách nhảy từ trên thuyền xuống nước, cho tới cách lắc vợt, rê gầu, kéo gầu, hay cách buộc hòn đá neo để thuyền trôi chậm theo dòng nước… mấy công đoạn ấy phải đàn ông mới làm được. Người làng Hến làm nghề theo phường, thường thì hai người một thuyền, mươi mười lăm thuyền thành một đội, người đội trưởng và cũng là người già nhất gọi là ông “ghẹ”, bạn thuyền gọi là “trai”. Khởi hành cào hến từ giữa đêm nên ông “ghẹ” có trách nhiệm chỉ huy đoàn để không lạc nhau, theo cách thông thường thì dùng tiếng nói, tiếng hát và có lẽ đây cũng là nguồn gốc của nhiều câu ví giặm vùng này. Vậy nên, giữ được nghề làm hến cũng là giữ thêm được câu ví giặm.
![]() |
Một góc “nhà trí tuệ”, mô hình khuyến học của các xã ven sông La. |
Trưởng thôn Hến là ông Lê Kim Trọng, 65 tuổi, nhân dẫn chúng tôi tham quan bãi hến kể rằng, mấy chục năm gần đây làng đã không còn nung vôi từ vỏ hến. Số vỏ hến thừa đem đổ bãi sông, ô nhiễm thì không bị, vì phần lớn đã bị luộc lên rồi nhưng loại “rác” này số lượng cũng lớn quá. Mấy năm mà đoạn sông dài đến 500m đã bị bồi ra một đoạn dài. Cũng vì bãi bồi nhân tạo này mà thời gian qua “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đã tạo lên một cái bến ở bãi ngoài làm chỗ cho người dân sơ chế sản phẩm. Ông Trọng nguyên là xã viên hợp tác xã Minh Châu thuở những năm 1990 về trước. Theo ông cũng nhờ con hến trên sông La mà nhiều công trình xã hội chủ nghĩa quanh vùng này có vôi mà xây dựng, ngẫm lại mà thấy thương cho một thời đất nước còn gian khó. Ông Trọng nói: “Nghề làm hến tính ra chỉ đủ ăn. Nhớ lại cái thời đói kém “gạo châu, củi quế” mấy chục năm về trước dăm chục cân hến mới đổi được một cân gạo. Cũng may nhờ ơn dày của thành hoàng làng mà người dân làng hến có cái đức cần cù. Gặp buổi khó khăn cũng biết đi mót từng con trai, cái hến mà vượt qua bĩ cực”. Người làng hến nếu so với các làng khác quanh vùng thì không được tiếng “hay chữ”, nhưng cũng vì cái chí dám bỏ qua mặc cảm để vươn lên nên đến giờ học sinh làng Hến nổi tiếng đỗ đạt. Điều này có thầy Dương Thế Vinh, nguyên Hiệu trưởng Trường THCS Hoàng Xuân Hãn, xác nhận. Thầy kể, xưa dù ngập lụt, đói ăn nhưng người làng Hến vẫn nhất quyết cho con đi học và thực tế học sinh làng này học rất giỏi.
Con em hay chữ ấy là điều đáng mừng, nhưng cũng vì thế mà nghề làm hến đang dần mai một. Tính ra thanh niên trong làng độ tuổi dưới 30 giờ không còn ai làm hến nữa. Dù rằng mấy năm gần đây sản phẩm của làng rất có tiếng, đã từng xuất khẩu đến tận trời Âu. Thoạt nghe chuyện này, đoàn chúng tôi ai nấy đều ngạc nhiên, phải đến lúc xem hết quy trình của bà con làm hến mới thấy rằng, điều đó là hoàn toàn có thể. Ruột hến luộc lên có hai cách ướp, một là ướp muối để được 15 ngày, hai là cấp đông sâu cho “cả nước lẫn cái” thì để được cả tháng với điều kiện có máy bảo quản. Do bán được giá nên người dân đầu tư lại cho sản xuất nên mấy thứ máy móc bảo quản, xe đông lạnh, ô-tô người làng sắm đủ cả.
Mải chuyện chợt đâu thấy một con thuyền nhẹ lướt về bờ, trưởng làng Kim Trọng quen mắt ra chào, ấy là thuyền nhà Trường-Lan. Ông Trường năm nay 55 tuổi, bà Lan cũng đã 51 tuổi. Nhà có hai con, đều đã dựng vợ, gả chồng và ở tận mãi Hà Nội và thành phố Vinh, nhà tưởng đông hóa thành neo người. Trưởng làng than thở: “Ấy cũng là tình cảnh chung của hàng trăm hộ dân trong làng, con cái thành đạt ra thành phố ở hết, nghề hến giờ chỉ mấy ông bà già duy trì”. Thuyền ông Trường cập bến, nhìn vào khoang té ra cũng không ít hến, tính nhanh chuyến này cũng để ra được hơn 1 triệu đồng. Đấy là trừ chi phí xăng, dầu, thuê người luộc, đãi, vận chuyển. Một triệu đồng cho khoảng 16 giờ làm (từ 11 giờ đêm đến 15 giờ chiều hôm sau), tính ra cũng là thu nhập cao ở nông thôn. Dịp lễ, Tết giá hến cao, một chuyến được dăm triệu đồng cũng không hiếm gặp. Cũng là nghề có thu nhập ổn định nhưng thanh niên trai tráng trong làng cũng ít ai muốn làm vì ngại vất vả.
Nỗi lo làng nghề truyền thống mai một không chỉ riêng của người dân làng Hến, mà thực đó chính là nỗi lo chung của các cấp ủy đảng, chính quyền huyện Đức Thọ. Nghị quyết thì đã ban hành, tuyên truyền thì cũng có hàng trăm bận, ấy thế nhưng nếu nghị quyết không phù hợp với nguyện vọng của người dân thì rất khó đi vào cuộc sống. Nguyện vọng của lớp trẻ bây giờ là đi làm xa, thoát ly làng xã dù thực tế cuộc sống rất khốc liệt, cầm tấm bằng đại học cũng khó bảo đảm kiếm đủ tiền để chi trả cho các loại chi phí nơi phố thị. Khó thế đấy! Theo tính toán của Huyện ủy Đức Thọ, nhiều xã có đến một phần ba dân số đi làm ăn xa, mà lực lượng này hầu hết rơi vào thanh niên độ tuổi dưới 35. Thêm điều đáng tiếc nữa là dù mang tiếng là làng “trăm nghề” nhưng làng lại chưa có sản phẩm OCOP, dù “lẩu hến sông La” đã từng giành giải cao của nhiều cuộc thi ẩm thực trong và ngoài tỉnh.
Phó Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Đức Thọ Mai Ngọc Hà cho biết: “Gần đây cùng với nỗ lực của Huyện ủy trong việc phát triển văn hóa, con người địa phương nhằm phát triển, xây dựng quê hương đã bắt đầu cho thấy những tín hiệu tốt. Như việc gìn giữ và bảo tồn những làng nghề truyền thống được người dân nhiệt tình hưởng ứng. Thêm vào đó quá trình xây dựng nông thôn mới cũng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân địa phương. Trong lĩnh vực văn hóa, du lịch cũng đã có nhiều mô hình thành công”. Được biết, ngay tại làng Hến cũng đã có mô hình kinh tế cho thuê thuyền du lịch sông La; những nghề đóng tàu, đan tre, nuôi trồng thủy sản… cũng đang được nhân rộng. Theo chúng tôi, để giữ nghề truyền thống, giữ gìn di sản cha ông còn cần những “cánh chim đầu đàn” đó là những doanh nghiệp mạnh để đổi mới phương thức sản xuất, tiếp thị sản phẩm từ đó làm tấm gương để lan tỏa, giúp dân hiểu rõ văn hóa cũng chính là nguồn lực và tài sản quý báu ấy dù có khai thác nhiều thế hệ cũng không hết.