Với tôi ngày ấy, “trong Nam” là một nơi nào vừa mơ hồ vừa xa xôi, vừa bí ẩn quyến rũ. Thế giới quen thuộc của tôi lúc đó chỉ quanh quẩn ở thành phố Dệt, với tiếng còi tầm nhà máy luôn vang lên vào đúng những cữ giờ quen thuộc. Những phố hàng xưa cũ tựa vào nhau qua tháng năm. Xóm Chùa Cuối mà tôi thuộc đến từng cây sung, bụi chuối. Góc bếp ám khói tôi ngồi bó gối chờ cơm sôi... Thế giới ấy, tôi dù có muốn cũng khó lòng bị lạc.
Tôi đã cố thử hình dung nơi Tấn sẽ đến. Liệu có chút gì liên quan đến “Đất rừng phương Nam” mà tôi từng đọc? Tôi liên tưởng đến cảnh Tấn chắc sẽ phải chèo thuyền giữa các kênh rạch nên còn quan tâm dặn bạn mình cố mà học cả bơi, ngộ nhỡ ra sông bị ngã xuống nước thì sao?
“Không, mình ở TP Hồ Chí Minh, bố mình nói cũng không khác Nam Định mấy đâu”, Tấn giải đáp, nhưng nhìn vào mặt cậu ấy, tôi biết Tấn cũng không chắc lắm về điều mình vừa nói. Cũng như tôi, Tấn chưa từng đi ra ngoài thành phố bé nhỏ, bình yên này.
Vài bạn trong lớp bàn kế hoạch ra ga tiễn Tấn. Nhưng việc đơn giản là hỏi Tấn đi giờ nào để đi tiễn thì chẳng đứa nào nghĩ ra. Bởi vậy đúng ngày Tấn đi, tranh thủ buổi chiều không phải học, mấy đứa con gái dắt nhau ra chỗ đường ray gần lớp học, đứng ngồi nhấp nhổm đợi tàu chạy qua. Đợi mãi, đợi mãi cạnh đường sắt lốc nhốc đá và khét lẹt mùi dầu máy thì cũng nghe thấy tiếng tàu rầm rập lao đến. Chúng tôi bảo nhau đứng nép vào rệ đường, nhìn con tàu trùi trũi lao đến, hồng hộc nhả những vệt khói đen sì, cố căng mắt nhìn các toa tàu vụt qua loang loáng xem có thấy Tấn không để còn vẫy tay chào. Nhìn mãi, nhìn mãi chúng tôi chỉ bắt gặp những khuôn mặt xa lạ. Đoàn tàu chạy hút về phía xa xăm, bỏ lại đường ray vẫn còn âm âm tiếng động cơ.
Chúng tôi bần thần đứng lại rất lâu, nhìn đám cỏ lơ thơ trong nắng gắt, chẳng biết nói gì. Trong lòng có chút bâng khuâng. Không hiểu sao lúc ấy, tôi mong ước được như Tấn, thay vì tiễn ai đó thì chính tôi là người ra đi, như vậy tôi sẽ được đặt chân đến những vùng đất xa lạ, được khám phá những điều mới mẻ. Tôi nhìn theo bóng con tàu chỉ còn đọng lại mơ hồ, thầm gửi theo những điều ước xa vời.
Nhiều năm sau, khát vọng lên đường đã biến thành hiện thực. Mỗi chuyến đi luôn mang lại cho tôi thật nhiều nguồn năng lượng, cảm xúc và sự hứng khởi. Lần đầu tiên đặt chân đến TP Hồ Chí Minh, tôi lập tức nhớ đến Tấn. Tôi tự nhủ, cuối cùng mình đã đặt chân được vào “trong Nam” như mong ước thuở nào. Có lẽ Tấn cũng không ngờ rằng, chuyến tàu rời Nam Định năm ấy của Tấn đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi đến thế. Đứng giữa lòng đô thị được mệnh danh là “thành phố không bao giờ ngủ”, ngước nhìn những vòm me xanh ngắt xào xạc nắng gió, trong tôi bỗng hiện lên đường ray khét mùi dầu năm nào, với những đứa trẻ dõi mắt theo đoàn tàu tìm bạn.
Thật lạ, trên mỗi bước đường đi qua, bằng cách này hay cách khác, hình bóng quê nhà, những kỷ niệm xưa cũ luôn hiện về trong tâm trí. Như lần tôi lang thang quanh chợ quê ở Cà Mau, nhìn đám trẻ chạy đuổi nhau giữa mấy sạp hàng tôi bỗng cồn cào nhớ về chợ Phù Long cách nhà hơn cây số. Cuối tuần mẹ hay hái rau buộc thành mớ gọn ghẽ, chất sau xe cho chị em tôi chở đi bán. Hai chị em đứng tần ngần một góc chợ, thấy người đi qua, đi lại hỏi mà cứ lúng búng như ngậm hột thị, mãi mới dám trả lời. Có hôm đứng dãi nắng đến trưa, rau bắt đầu héo mà hai chị em mới chỉ bán được vài mớ.
Năm 2010, trong chuyến ra thăm Trường Sa, tôi đứng rất lâu dưới giàn mướp sai trĩu quả được bộ đội chăm sóc kỳ công giữa đảo xa nắng gió, thiếu đất và nước ngọt. Trong tích tắc, có cảm giác như đang về lại mái nhà xưa ở xóm Chùa Cuối. Trước sân nhà tôi cũng có giàn mướp như vậy. Mỗi ngày thức dậy, tôi thường cố tìm đếm những trái non vừa nhú lên, giấu mình sau kẽ lá.
Nhớ lần ngồi ăn phở Việt tại San Francisco (Mỹ), nhìn thực khách người nước ngoài hào hứng thưởng thức tô phở to cỡ đại bốc khói nghi ngút, tôi nôn nao nhớ về quán phở ở dốc Lò Trâu mẹ đưa tôi đến ăn năm nào. Quán che chắn mấy mảnh liếp tuềnh toàng, mái lợp bằng giấy dầu, bàn ghế gỗ cập kênh, nghe rõ cả tiếng gió thổi loạt xoạt bên ngoài, nhưng chẳng ngăn được khách trong phố tìm đến, xì xụp tận hưởng bát phở bò nóng hổi. Có lẽ cả cuộc đời này tôi sẽ chẳng bao giờ được ăn bát phở ngon như vậy. Ký ức luôn có một dư vị riêng mà không hiện thực nào có thể đắp đổi được.
Một năm giáp Tết, tôi vẫn còn lang thang dọc mấy tỉnh biên giới phía bắc. Có ngày nhiệt xuống dưới 4 độ, mưa lạnh lây nhây càng khiến trời buốt hơn. Hai cánh mũi tôi lạnh cóng, tấy đỏ, hai bàn tay tê dại, gần như mất cảm giác. Tình cờ ngang qua một nhà dân có bếp lửa bập bùng giữa nhà, đám trẻ con lốc nhốc chung quanh, tôi ghé vào sưởi nhờ, xin bát nước nóng uống cho ấm bụng. Bắt gặp bà chủ nhà phúc hậu, hai gò má đỏ rực vì nẻ đang tất bật giữa la liệt lá dong, gạo, đỗ, thịt ba chỉ. Khoảnh khắc ấy tim tôi xao động. Cũng cữ này mẹ ở nhà hẳn cũng đang tính xem gói bao nhiêu tấm bánh chưng để đong gạo, căn đỗ cho vừa vặn. Nếu ở nhà, tôi sẽ được phân công rửa lá dong. Nhưng gặp năm tiết trời lạnh sâu, mẹ thường giành luôn phần việc ấy. Vậy nên trong lúc hai chị em chành chọe nhau trong nhà thì mình mẹ ngồi khỏa nước bên cầu ao heo hút gió, rửa hết cả mấy bó lá. Đến khi các con lớn, lấy chồng xa nhà, mẹ vẫn cặm cụi gói bánh chưng gửi lên.
Tôi nhận ra rằng, dù có đi xa đến chân trời góc bể nào thì quê nhà vẫn luôn hiện diện ngay cạnh tôi đây, mãi mãi không thể lìa xa. Rồi đi mãi, đi mãi cũng sẽ chẳng nơi đâu bình yên, ấm áp bằng nhà mình, bằng quê hương nơi mình sinh ra. Bởi trái tim tôi đã vĩnh viễn thuộc về nơi đó…