Tập trung, tích tụ ruộng đất

Dù gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nhưng xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi của đời sống, thời gian qua, việc tập trung, tích tụ ruộng đất đã diễn ra ở một số địa phương với những hình thức, quy mô khác nhau. Qua đó, bước đầu đã hình thành được một số mô hình sản xuất nông nghiệp (NN) tập trung, hiện đại, có sự liên kết, mang lại hiệu quả cho các bên liên quan...

Ông Đoàn Văn Sáu, Giám đốc Công ty Cường Tân (Trực Ninh, Nam Định) bên cánh đồng lúa giống sản xuất theo phương thức tích tụ ruộng đất, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp.
Ông Đoàn Văn Sáu, Giám đốc Công ty Cường Tân (Trực Ninh, Nam Định) bên cánh đồng lúa giống sản xuất theo phương thức tích tụ ruộng đất, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp.

Kỳ 2: Hướng mở từ những mô hình liên kết

(Tiếp theo & hết)

“Tại anh, tại ả”

Có những câu chuyện về hiện tượng người nông dân được giao quyền sử dụng ruộng đất nhưng không có nhu cầu canh tác và những nhà đầu tư, doanh nghiệp (DN) có nhu cầu thu gom, tích tụ ruộng đất để đầu tư sản xuất NN tập trung vẫn chưa gặp, bắt tay được với nhau. Theo lẽ thường điều này phải đã và đang diễn ra. Đầu tiên, có lẽ nằm ở tâm lý muốn giữ cho bằng được ruộng đất của số đông những người được giao. Bởi ruộng đất, dù ở thời kỳ nào cũng luôn gắn bó máu thịt với người dân nông thôn. Chính vì vậy, dù trên thực tế, nhiều người không còn gắn bó với ruộng đất, chuyển đổi, sinh sống bằng nhiều công việc, ngành nghề khác nhưng vẫn giữ số ruộng đất được giao, với tâm lý nếu gặp thất bại, rủi ro vẫn còn đường lùi về làm ruộng.

Mặt khác, ruộng đất, như đã biết đã được chia nhỏ, giao ổn định cho nhiều hộ nông dân. Muốn tập trung, tích tụ được, cá nhân hay DN sẽ phải cùng lúc đàm phán với nhiều hộ nông dân. Đây là việc khó khăn, phức tạp, không dễ có được sự đồng thuận.

Trong một buổi làm việc mới đây tại tỉnh Nam Định, Bộ trưởng Xây dựng Phạm Hồng Hà, người trước đó là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Nam Định, kể rằng: “Trong thời gian còn công tác ở tỉnh, một số DN đến gặp tôi, đề nghị được đầu tư một số dự án (DA) NN công nghệ cao tại Nam Định. Họ nói, chúng tôi không lo thiếu vốn, cũng không thiếu kỹ thuật, công nghệ mà chỉ lo không có đất để thực hiện...”.

Nguyên nhân khác có lẽ nằm ở sự e dè của các nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực NN. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hiện mới chỉ có khoảng 1% trong tổng số các DN của cả nước đầu tư vào lĩnh vực này. Nguyên nhân được cho là đầu tư vào NN có nhiều rủi ro hơn.

Cần tạo hành lang pháp lý thông thoáng

Từ thực tế các DA NN do DN liên kết đầu tư đang được triển khai tại một số tỉnh như: Nam Định, Thái Bình, Hà Nam cho thấy thêm một nguyên nhân khác, không kém phần quan trọng, đó là khi thuê ruộng đất của nông dân, DN thường trả giá rất thấp. Như một DA tại huyện Lý Nhân (Hà Nam), DN chỉ trả cho nông dân giá trị bằng… 120 kg ngô/sào/năm; ở Thái Bình nông dân chỉ được trả khoảng 600.000 đồng/sào/năm. Đặc biệt, rất ít nông dân sau khi cho thuê ruộng được DN tuyển dụng vào làm việc trong các DA NN... khiến họ e dè với việc cho thuê ruộng đất. Cùng với đó là nỗi lo về tình trạng lợi dụng chủ trương tích tụ ruộng đất để đầu cơ đất NN, chờ cơ hội chuyển đổi sang mục đích khác để trục lợi...

Liên quan những khó khăn, vướng mắc trong việc tập trung, tích tụ ruộng đất, nhiều chuyên gia, nhà quản lý từng đưa ra một số kiến nghị, giải pháp. TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Chiến lược và Chính sách phát triển NN, nông thôn, cho rằng: Trước hết phải giải quyết được vấn đề đầu ra của số lao động khu vực NN khi họ rời bỏ khu vực này. Như đã phản ánh, phân tích, mặc dù đã và đang có nhiều trường hợp lao động ở khu vực NN chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực khác, nhưng phần nhiều mới chỉ chuyển sang khu vực lao động không chính thức, thiếu tính ổn định về việc làm, thu nhập. Chỉ khi nào số lao động này gia nhập khu vực lao động chính thức, họ mới có nhu cầu cho thuê, sang nhượng hay góp vốn, cổ phần bằng ruộng đất. Việc tập trung, tích tụ ruộng đất khi đó mới có điều kiện thuận lợi để triển khai...

Mặt khác, theo ông Đặng Kim Sơn, phải tạo điều kiện, thúc đẩy thị trường về ruộng đất vận hành. Đã đến lúc nhà nước cần cho phép, tạo điều kiện, khuyến khích những người làm ăn giỏi được mua ruộng đất; khuyến khích những DN có điều kiện, khả năng thuê được ruộng đất với điều kiện sau đó đất đai chỉ được người mua, người thuê sử dụng cho mục đích sản xuất NN. Nhà đầu tư, DN cần kêu gọi nông dân góp vốn, góp cổ phần bằng ruộng đất; tạo điều kiện để những người có đủ điều kiện, khả năng được vào làm việc tại các DA NN do DN đầu tư, được trả lương và được đóng các loại bảo hiểm. Đặc biệt, cần tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, bảo đảm quá trình mua bán, sang nhượng, góp cổ phần bằng ruộng đất diễn ra thuận lợi, thủ tục đơn giản, chi phí thấp, kết quả được pháp luật công nhận, bảo hộ cao...

Những mô hình liên kết tiêu biểu

Mấy năm nay, ở tỉnh Nam Định, mô hình liên kết giữa Công ty Cường Tân (xã Trực Hùng, huyện Trực Ninh) với nông dân một số huyện phía nam tỉnh được nhắc đến như một điển hình nhờ tập trung, tích tụ được ruộng đất. Sau khi thuê được ruộng đất của nông dân địa phương, Công ty Cường Tân dồn đổi thành những cánh đồng lớn, đầu tư xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất. Sau đó giao lại ruộng đất cho các hộ nông dân có nhu cầu, khả năng để sản xuất lúa giống theo quy trình kỹ thuật và giám sát của DN. Sản phẩm lúa giống do các hộ nông dân làm ra được Công ty Cường Tân thu mua lại theo hợp đồng và tổ chức tiêu thụ...

Theo ông Đoàn Văn Sáu, Giám đốc Công ty Cường Tân, ban đầu lãnh đạo một số xã trong huyện Trực Ninh tỏ ra e dè. Họ lo ngại nếu thất bại sẽ không biết “ăn nói” thế nào với bà con. Phải đến khi mô hình được thử nghiệm thành công trên quy mô nhỏ, khẳng định mang lại thu nhập cao hơn hẳn cho nông dân so phương thức sản xuất đơn lẻ trước đây, lãnh đạo các địa phương mới thật sự “nhập cuộc”, tuyên truyền, vận động nông dân địa phương tham gia. Sau gần 10 năm triển khai, đến năm 2017 này, đã có hơn 1.000 hộ nông dân ở các huyện phía nam tỉnh Nam Định tin tưởng, cho DN thuê hơn 300 ha đất và cùng hợp tác sản xuất lúa giống trên quy mô lớn, mỗi năm cung cấp hàng nghìn tấn lúa giống, chủ lực là giống TH 3-3 cho nông dân ở các tỉnh, thành phố trên cả nước.

Ở tỉnh Hà Nam liền kề, mô hình tích tụ ruộng đất mới xuất hiện nhưng được xem là “sản phẩm” của một chương trình chỉ đạo thống nhất từ tỉnh đến cơ sở. Theo đó, tỉnh đã xây dựng một đề án riêng về tích tụ ruộng đất; quy hoạch được gần 964 ha ruộng đất thuộc địa bàn TP Phủ Lý, các huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Bình Lục để xây dựng thành các vùng sản xuất NN công nghệ cao. Hiện tại đã có một số DN của Nhật Bản tìm sang hợp tác đầu tư với một số DN đang triển khai sản xuất...

Tại mô hình sản xuất rau củ quả sạch, công nghệ cao, do Công ty An Phú Hưng liên kết một số hộ nông dân ở xã Nhân Khang (Lý Nhân, Hà Nam) thực hiện, trên cánh đồng phía trước các xóm 2,3,4,5 của xã Nhân Khang giờ đây mọc lên một khu sản xuất NN khá hiện đại, áp dụng công nghệ và hướng dẫn kỹ thuật của các chuyên gia đến từ Nhật Bản. Các khâu tưới, làm đất, vận chuyển đều được tự động hóa, cơ giới hóa. Sản phẩm bắp cải, khoai tây, cà chua… được đóng gói, mang thương hiệu “Kisuki An Phú Hưng” và tiêu thụ ở một số siêu thị tại Hà Nội.

Theo ông Nguyễn Bá Đăng, Giám đốc điều hành Công ty An Phú Hưng, nhờ có sự “hậu thuẫn” tích cực của chính quyền, giữa một số hộ nông dân xã Nhân Khang và DN đã có “cái bắt tay lịch sử”. Theo cam kết giữa hai bên, nông dân cho DN thuê lại ruộng đất trong 20 năm để tổ chức sản xuất. Những người có nhu cầu, đủ điều kiện được Công ty An Phú Hưng tuyển dụng vào làm việc.

Tương tự, tại tỉnh Thái Bình, theo báo cáo của UBND tỉnh, thời gian qua, tỉnh này đã tích tụ được khoảng 7.000 ha ruộng đất phục vụ các dự án sản xuất NN tập trung. Phương châm, cơ chế của tỉnh là vận động nông dân có đất, nhất là các hộ không còn nhu cầu canh tác ủy quyền cho chính quyền địa phương cho các DN, cá nhân thuê để tổ chức sản xuất với thời gian, đơn giá, phương thức thanh toán tiền thuê đất theo thỏa thuận giữa bên thuê và bên cho thuê đất, trên cơ sở không trái với các quy định pháp luật.