Khám phá mới về di sản quân sự thời Tây Sơn

Nhiều tư liệu kỹ thuật, khảo cứu lịch sử và phân tích của giới chuyên môn cho thấy kho vũ khí của quân đội Tây Sơn dưới thời Hoàng đế Quang Trung sở hữu những yếu tố vượt trội, đặc biệt trong cách sử dụng thuốc súng đen, diêm tiêu và hỏa dược.

Du khách tham quan Bảo tàng Quang Trung (xã Tây Sơn, tỉnh Gia Lai), nơi lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật lịch sử quý giá thời Tây Sơn.
Du khách tham quan Bảo tàng Quang Trung (xã Tây Sơn, tỉnh Gia Lai), nơi lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật lịch sử quý giá thời Tây Sơn.

Góc nhìn từ các nghiên cứu hiện đại

Là một trong những chuyên gia giàu kinh nghiệm và tâm huyết với đề tài nghiên cứu lịch sử và công nghệ quân sự nước Việt cổ, kỹ sư Vũ Đình Thanh (Hà Nội) đã tìm kiếm và phân tích hệ thống tài liệu từ sử sách Việt Nam, Anh, Pháp, cũng như các ghi chép đương thời cho phép nhìn lại toàn cảnh hoạt động quân sự trong giai đoạn cuối thế kỷ 18.

Trong đó, kỹ sư Vũ Đình Thanh đặc biệt chú ý tới hoạt động của các công ty Đông Ấn Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Tây Ban Nha – các tổ chức thương mại có quân đội riêng, được phép đúc tiền, tuyên bố chiến tranh và kiểm soát thuộc địa rộng lớn từ châu Á đến châu Phi, châu Mỹ. Đơn cử, Công ty Đông Ấn Anh từng sở hữu quân số gấp đôi quân đội Hoàng gia Anh và nắm 70% nguồn diêm tiêu cung cấp cho phương Tây sau khi kiểm soát phần lớn Ấn Độ cuối thế kỷ 19. Công ty Đông Ấn Pháp cũng kiểm soát một phần lãnh thổ Ấn Độ, với Pondicherry là trung tâm.

Tương quan đó cho thấy quân Tây Sơn từng trực tiếp đối đầu không chỉ với lực lượng của Nguyễn Ánh mà còn với mạng lưới lính đánh thuê của các Công ty Đông Ấn – những đơn vị có kinh nghiệm chinh chiến tại nhiều thuộc địa. Theo kỹ sư Thanh, trận Manuel Mạn Hòe – chỉ huy lực lượng trang bị tàu bọc đồng và pháo Pháp – bị tiêu diệt cùng hàng nghìn quân đánh thuê cho thấy quy mô giao tranh tương đương các trận đánh lớn như chiến thắng quân Xiêm (1785) hay các trận đánh trong chiến dịch đại phá quân Thanh (1789).

Một trọng tâm khác trong nghiên cứu của ông Vũ Đình Thanh là nguồn diêm tiêu (KNO3) – thành phần chiếm 75% trong thuốc súng đen. Trước khi có thuốc nổ hiện đại, mọi loại súng, pháo và lựu đạn phương Tây đều phụ thuộc tuyệt đối vào loại thuốc súng này. Dù có kỹ thuật luyện kim phát triển, châu Âu vẫn không tự chủ được nguồn diêm tiêu và phải nhập khẩu từ Đông Nam Á đến hết thế kỷ 19.

Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, phân dơi tự nhiên tại Việt Nam, Lào, Campuchia và miền nam Trung Quốc là nguồn diêm tiêu lớn nhất thế giới. Chính vì vậy, ngay từ thế kỷ 15-16, các nước phương Tây tìm mọi cách khai thác hoặc kiểm soát khu vực có trữ lượng này. Ghi chép của nhà nghiên cứu Dupouy (1913) cho biết đến năm 1903, tại Bắc Kỳ vẫn có 22 mỏ diêm tiêu đang hoạt động. Dữ liệu này cho thấy diêm tiêu từng là nguyên liệu chiến lược quan trọng mà Pháp khai thác mạnh mẽ sau khi đặt ách cai trị.

nghien-cuu-gaston.jpg
Ảnh trái: Sách Nghiên cứu khoáng vật học về Đông Dương thuộc Pháp (Gaston Dupouy, 1913);
Ảnh phải: Trung đoàn pháo binh cơ động Auxonne của Pháp sử dụng thuốc súng với thành phần diêm tiêu khai thác từ Việt Nam. (Ảnh: NVCC)

Từ những số liệu trên, kỹ sư Vũ Đình Thanh nhận định giá trị kinh tế-quân sự của diêm tiêu thời cận đại là đặc biệt lớn. Theo Viện Nghiên cứu Chiến lược Pháp, vào cuối thế kỷ 17-18, giá 1kg thuốc súng bằng 0,5kg vàng, trong đó 80% chi phí là cho diêm tiêu, tức 1kg phân dơi gần bằng 0,4kg vàng tại Pháp. Điều đó lý giải vì sao thông tin về các mỏ diêm tiêu Đông Dương được giữ bí mật trong thời gian dài.

Trong bối cảnh đó, các tư liệu lịch sử Đại Việt cho biết, từ thế kỷ 15, nước ta đã biết chế tạo súng thần công, sử dụng thuốc súng đen sớm hơn nhiều khu vực. Năm 1390, tướng Trần Khát Chân dùng súng thần công bắn hạ Chế Bồng Nga; sau đó, Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh đưa sang Trung Quốc để chế tạo vũ khí. Súng hỏa mai Đại Việt từng được thương nhân quốc tế biết đến với tên gọi “súng Giao Chỉ” từ năm 1479.

Các giả thuyết kỹ thuật này khi đối chiếu với nguồn gốc vật liệu cho thấy Đại Việt có ưu thế tự nhiên nhờ nguồn diêm tiêu sẵn có, cho phép sản xuất lượng thuốc súng lớn và ổn định – yếu tố quan trọng trong duy trì năng lực quân sự.

Giả thuyết về hỏa dược Tây Sơn và giá trị khoa học lịch sử

Một phần nghiên cứu đáng chú ý của kỹ sư Vũ Đình Thanh liên quan tới mô tả hỏa khí Tây Sơn trong chính sử và thư tịch Trung Quốc. Ông cho rằng nhiều tài liệu ghi lại dấu hiệu của dạng hỏa dược có khả năng cháy lâu, khó dập tắt, thậm chí gây ngạt do tiêu hao ôxy – đặc trưng của phản ứng phốt-pho trong môi trường không khí.

Trong các ghi chép của Thanh triều về trận Ngọc Hồi-Đống Đa năm 1789, “hỏa cầu” được mô tả “nhanh như sấm chớp” và “nóng như thò tay vào vạc dầu”. Điều này gợi ý đặc tính cháy bùng và gây bỏng sâu. Hiện vật “hỏa cầu Tây Sơn” đang trưng bày tại Bảo tàng Quang Trung (Gia Lai), với cấu trúc thành dày, cũng là một trong những chi tiết kỹ sư Thanh dùng để đối chiếu.

Ông đưa ra giả thuyết về việc quân Tây Sơn đã biết dùng phốt pho khai thác từ phân dơi, phân chim ở các quần đảo như Hoàng Sa, Trường Sa. Một số cộng đồng dân tộc miền núi từng có tục luyện chất phát sáng từ đất các hang dơi. Tài liệu chính sử nhà Nguyễn ghi “Tây Sơn dùng nhựa cây trộn với dầu mỏ chế ra hỏa dược cháy lâu và không thể dập tắt”. Giả thuyết này đã được Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng, đánh giá là “có cơ sở” khi đối chiếu với kinh nghiệm thực tế tiếp xúc phốt-pho trong chiến tranh chống Mỹ.

cac-hinh-thuc-su-dung-vu-khi-phot-pho-tren-bo.jpg
Minh họa các hình thức triển khai vũ khí phốt-pho trên bộ. (Ảnh: NVCC)

Việc dùng “hỏa hổ”, “hỏa tiễn” (tên lửa thô sơ) từ các ống phóng cỡ nhỏ, không tạo độ giật lớn như pháo, cũng được kỹ sư Thanh phân tích như một giải pháp phù hợp khi triển khai trên mình voi hoặc trên thuyền chiến. Ông cho rằng đây có thể là nguyên nhân giúp quân Tây Sơn có hỏa lực vượt trội khi đối đầu lực lượng của Manuel Mạn Hòe hay các đội quân đánh thuê được trang bị tàu bọc đồng và pháo châu Âu.

Từ năm 1782 đến 1783, quân Tây Sơn đánh bại liên quân lính đánh thuê của nhiều Công ty Đông Ấn, khiến Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh phải rút lui. Các ghi chép từ Anh và Pháp xác nhận lực lượng này gồm nhiều nghìn binh lính không phải người Việt mà là quân thuê quốc tế. Tuy vậy, phần lớn những trận đánh này ít được nhắc tới trong sử sách phổ thông bởi các nguồn tư liệu chủ yếu nằm rải rác trong văn bản của phía phương Tây.

Theo kỹ sư Thanh, cùng thời điểm Hoàng đế Quang Trung qua đời, một số tướng lĩnh và người thân cận của ông cùng nhiều thợ tại các công xưởng được cho là cũng gặp tai biến liên quan tới việc chế tạo hỏa dược, điều dễ hiểu khi điều chế phốt-pho.

Trong khi đó, các cường quốc châu Âu tiếp tục cải tiến kỹ thuật. Pháp đưa phân dơi về tinh chế, tạo hạt thuốc súng có sức nổ mạnh hơn thuốc súng đen thông thường; từ đó phát triển lựu đạn, đạn nho và nâng tầm pháo binh cơ động. Các tiến bộ khoa học như phát hiện ôxy của Antoine Lavoisier giúp quân châu Âu hiểu rõ tác động của đám cháy lớn, từ đó bố trí đội hình, xây thành kiểu Vauban để giảm thiểu nguy cơ ngạt khí – điều quân Thanh không lường trước năm 1789.

Nhìn tổng thể, những góc phân tích từ kỹ thuật-hóa học-quân sự mà kỹ sư Vũ Đình Thanh đưa ra mở thêm cách lý giải vì sao quân Tây Sơn thời Quang Trung có thể tạo nên ba chiến thắng liên tiếp: đánh tan quân Công ty Đông Ấn (1782-1783), thiêu rụi 5 vạn quân Xiêm (1785) và đánh bại 30 vạn quân Thanh (1789).

Dù cần tiếp tục được kiểm chứng thêm bằng khảo cổ học, phân tích vật liệu và sự đối chiếu đa chiều, những nghiên cứu nêu trên góp phần mở rộng hướng tiếp cận lịch sử quân sự Việt Nam. Việc đặt các chiến thắng của Đại Việt trong tương quan công nghệ vũ khí toàn cầu thế kỷ 18 cũng gợi nhiều câu hỏi thú vị về trình độ khoa học-kỹ thuật của cha ông ta. Khai thác sâu hơn những tư liệu này không chỉ giúp làm sáng tỏ các giả thuyết mà còn góp phần hiểu rõ hơn di sản tri thức, sáng tạo và sức mạnh tự cường của dân tộc qua các thời kỳ.

Có thể bạn quan tâm

Một tiết mục biểu diễn của phường rối nước Nguyên Xá (xã Đông Hưng, tỉnh Hưng Yên). (Ảnh: ST)

Các nghệ nhân phường rối nước Nguyên Xá nỗ lực giữ nghề

Trong không gian nhà thủy đình vừa được nâng cấp, tu sửa, tiếng trống rối vang lên rộn ràng đón khách. “Nghe tiếng trống rối, cơm sôi cũng bỏ” gợi lên sức hấp dẫn đặc biệt của loại hình nghệ thuật dân gian này. Thế nhưng, phía sau âm thanh rộn rã ấy, thấp thoáng nỗi lo giữ nghề của các nghệ nhân phường rối nước Nguyên Xá.

Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính trao Giải Nhất hạng mục video cho Lưu Minh Khương với tác phẩm “Những nụ cười hạnh phúc”.

[Video] Giải thưởng “Việt Nam hạnh phúc 2025”: Góp thêm những lát cắt đẹp về một đất nước nhân văn và giàu bản sắc

Giải thưởng truyền thông về quyền con người “Việt Nam hạnh phúc - Happy Vietnam 2025” tiếp tục trở thành điểm hẹn sáng tạo của những người yêu nhiếp ảnh và làm phim, trong nước và quốc tế. Năm thứ ba được tổ chức trực tuyến, Giải thưởng chứng minh sức lan tỏa lớn khi thu hút hàng chục nghìn tác phẩm tham dự.

Bìa cuốn sách Chua ngọt đời văn của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. (Ảnh: LINH BẢO)

“Chua ngọt đời văn” cùng nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn

Hơn nửa thế kỷ cầm bút, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn đã có hơn 50 tác phẩm vừa văn xuôi vừa kịch bản phim, trong đó nhiều tác phẩm khắc sâu trong lòng độc giả nhiều thế hệ. Ở tuổi 80, tác giả của “Cù lao Tràm” tiếp tục cho ra đời 2 tác phẩm mới như một minh chứng cho sự lao động miệt mài của mình trên cánh đồng văn chương.

Chương trình 3D Mapping với chủ đề “Tinh hoa đạo học” tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám. (Ảnh: BTC)

Số hóa di sản

Điểm mới nổi bật của Nghị định 308 là đẩy mạnh số hóa di sản, thích ứng với yêu cầu của công cuộc chuyển đổi số quốc gia, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong giai đoạn mới.

Em bé gửi gắm điều ước lên Cây Hạnh phúc.

Lan tỏa yêu thương, sẻ chia từ “Cây Hạnh phúc” tại Ngày hội Việt Nam hạnh phúc 2025

Là một trong 13 không gian trải nghiệm của Ngày hội Việt Nam hạnh phúc 2025, khu vực “Cây Hạnh phúc-Nơi điều ước thành hiện thực” là điểm dừng chân đặc biệt thu hút đông đảo người dân và du khách. Không khí nơi đây như chậm lại, để mỗi người có thể dành khoảnh khắc suy ngẫm về điều khiến bản thân cảm thấy hạnh phúc.

Du khách thích thú xem "cá lóc bay" ở làng du lịch cộng đồng cồn Sơn.

Đặc sắc Lễ hội Văn hóa sông nước Cần Thơ và các sản phẩm du lịch đặc thù thu hút du khách

Sau sáp nhập, thành phố Cần Thơ mở ra không gian phát triển mới, với hệ sinh thái đa dạng và nét văn hóa độc đáo. Để phát triển du lịch, Cần Thơ tổ chức các lễ hội quy mô lớn đặc trưng vùng sông nước; chủ động liên kết các doanh nghiệp, đơn vị lữ hành, điểm du lịch… phát triển các sản phẩm mới, đặc thù nhằm thu hút du khách.

Một chương trình biểu diễn nghệ thuật quy mô tại Sa Pa. (Ảnh LỮ MAI)

Điểm đến vùng cao và nghệ thuật thực cảnh

Sa Pa (Lào Cai) vừa biểu diễn thành công hai chương trình nghệ thuật thực cảnh quy mô lớn với sự tham gia của đông đảo nhân dân các dân tộc cùng diễn viên chuyên nghiệp, bồi đắp thêm hệ sinh thái du lịch văn hóa cộng đồng ở vùng cao.

Các bạn trẻ hào hứng xem phim "Tổ quốc trong tim: The concert film"

Lan tỏa mạnh mẽ tinh thần yêu nước trong các thế hệ

Tổ quốc trong tim: The Concert Film" đã chính thức phát hành rộng rãi, tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với công chúng. Tác phẩm điện ảnh âm nhạc này chinh phục khán giả không chỉ bằng chất lượng nghệ thuật, mà còn bằng khả năng truyền tải cảm xúc thiêng liêng về Tổ quốc, khơi dậy sâu sắc niềm tự hào và tình yêu đất nước.

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Theo thông tin từ Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (The Japan Foundation) tại Việt Nam, Liên hoan phim Nhật Bản 2025 sẽ diễn ra từ ngày 12/12/2025 đến 25/1/2026 tại Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.