Theo các thống kê gần đây, tính đến năm 2024, tỷ lệ người cao tuổi (trên 60 tuổi) tại Việt Nam chiếm khoảng 14,5% tổng dân số. Dự báo đến năm 2035, tỷ lệ này sẽ tăng lên gần 20% và đến năm 2049 có thể lên tới 24,88% (tương đương khoảng 28,6 triệu người).
Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, với thời gian chuyển từ giai đoạn "già hóa" sang "dân số già" chỉ khoảng 26 năm, ngắn hơn nhiều so với các nước phát triển như Pháp (115 năm) hay Australia (73 năm).
Già hóa dân số đòi hỏi Việt Nam cần các chính sách toàn diện và bền vững nhằm chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, đồng thời tận dụng kinh nghiệm, tri thức và đóng góp của khu vực dân số này cho sự phát triển chung của đất nước. Tuy vậy, chính sách về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại Việt trong những năm vừa qua còn một số vướng mắc.
Gánh nặng về dinh dưỡng, sức khỏe người cao tuổi
Hiện nay, chưa có bất cứ điều tra thống kê nào về tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của toàn bộ người cao tuổi nói chung trên phạm vi cả nước. Năm 2025, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã chủ trì, phối hợp Tổng hội Y học Việt Nam, Viện Y học ứng dụng Việt Nam triển khai đề tài tư vấn phản biện xã hội về “Thực trạng dinh dưỡng, sức khỏe của người cao tuổi tại một số thành phố lớn ở Việt Nam 2025”.
Được thực hiện trên hơn 400 người cao tuổi tại 5 phường trên địa bàn Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu cho thấy: người cao tuổi ở hai khu đô thị lớn nhất Việt Nam đang phải chịu gánh nặng đáng kể về dinh dưỡng, sức khỏe, trong đó bao gồm thừa cân béo phì và các bệnh mạn tính.
Cụ thể, tỷ lệ béo phì ở người cao tuổi tham gia gia nghiên cứu chiếm tới 33,2%. Bên cạnh đó, có 87,7% số người cao tuổi được khảo sát mắc ít nhất một loại bệnh mạn tính, phổ biến nhất là tăng huyết áp và xương khớp.
Về chế độ dinh dưỡng, nghiên cứu cũng cho thấy, chỉ 25% người cao tuổi được khảo sát ăn đủ năm nhóm thực phẩm trong bữa ăn. Trong đó, tỷ lệ người cao tuổi tiêu thụ sữa và chế phẩm từ sữa còn thấp (20%). Đáng ngại hơn, thói quen tiêu thụ thực phẩm chứa nhiều yếu tố nguy cơ cho sức khỏe (nhiều muối, chiên rán, giàu đường đơn) khá phổ biến, với tỷ lệ dao động trong khoảng 40-60%.
Khảo sát của Viện Y học ứng dụng Việt Nam từ các cán bộ y tế địa phương và đại diện Hội người cao tuổi cho thấy, những năm vừa qua, ngành y tế đã triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, tiêu biểu là hoạt động khám sức khỏe định kỳ tại trạm y tế (được triển khai tại toàn bộ 5 trạm y tế thực hiện khảo sát).
Ngoài ra, có không ít chương trình truyền thông-giáo dục sức khỏe cũng được tổ chức thường xuyên, giúp người cao tuổi nâng cao nhận thức về phòng chống bệnh tật, duy trì lối sống lành mạnh và chủ động hơn trong việc chăm sóc sức khỏe bản thân. Một số địa phương còn triển khai các mô hình câu lạc bộ sức khỏe, hoạt động thể dục dưỡng sinh cho người cao tuổi.
Mặc dù vậy, hoạt động chăm sóc sức khỏe trên có nơi, có lúc chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi. Nhiều hoạt động mang tính hình thức, chưa triển khai theo hướng chuyên sâu. Các hoạt động truyền thông cũng đang chuyển dần sang hình thức trực tuyến, gây hạn chế cho nhiều người cao tuổi không thành thạo công nghệ, hoặc bị hạn chế về không gian, cơ sở vật chất, phải lồng ghép với nhiều nội dung khác khiến hiệu quả truyền thông không được như mong đợi.
Cần một hệ thống giải pháp đồng bộ
Từ những kết quả nghiên cứu trên, Viện Y học ứng dụng Việt Nam, Tổng hội Y học Việt Nam đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao, cải thiện chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, đặc biệt là người cao tuổi tại một số khu đô thị lớn như Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo đó, cần tập trung xây dựng một mạng lưới y tế đa tầng, từ tuyến cơ sở đến tuyến trung ương, với trọng tâm là tăng cường năng lực chuyên môn lão khoa; hình thành chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi.
Trước hết, các cơ sở đào tạo y khoa, điều dưỡng và công tác xã hội cần đưa nội dung chăm sóc người cao tuổi vào chương trình đào tạo chính quy. Tiếp theo đó, cần cơ chế đãi ngộ, tôn vinh và khuyến khích phù hợp dành cho những người làm nghề chăm sóc người cao tuổi.
Ngoài ra, cần một chiến lược dài hạn để phát triển đồng bộ các cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo trợ xã hội dành cho người cao tuổi, bao gồm cả khu vực công lập và tư nhân.
Các cơ sở chăm sóc này nên được phân hóa đa dạng, theo phân khúc từ chăm sóc cơ bản đến chăm sóc chuyên sâu, chăm sóc cuối đời, từ mô hình chăm sóc ban ngày tới mô hình chăm sóc cả ngày nhằm tạo điều kiện tiếp cận cho người cao tuổi có các nhu cầu chăm sóc sức khỏe khác nhau.
Ở cấp độ chiến lược, nhà nước cần xây dựng một khung chính sách tổng thể về già hóa dân số và chăm sóc người cao tuổi, gắn liền giữa y tế, an sinh xã hội và nghiên cứu khoa học.
"Việc thành lập hệ thống viện nghiên cứu và trung tâm lão khoa quốc gia sẽ tạo nền tảng khoa học cho việc hoạch định chính sách, đào tạo nhân lực, nghiên cứu lão khoa và phát triển các mô hình chăm sóc tiên tiến. Trong bối cảnh già hóa dân số ngày càng rõ nét, việc học hỏi và tận dụng các kinh nghiệm quốc tế để phát triển các chính sách và mô hình chăm sóc người cao tuổi là rất cần thiết", Tiến sĩ, Bác sĩ Trương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam chia sẻ.