Món ăn tuy dân dã, mộc mạc nhưng không kém phần cầu kỳ, kết hợp nhiều nguyên liệu, mang đậm tính truyền thống với ý nghĩa gắn kết tình làng nghĩa xóm, sẻ chia với nhau những lúc khó khăn của đồng bào dân tộc Giẻ-Triêng.
Từ xa xưa, gạo là biểu tượng cho sự sống, cái no đủ cho nên dân làng Giẻ-Triêng rất quý hạt gạo. Mỗi khi có cưới xin nhà gái sẽ giã khoảng một tạ gạo. Gạo giã càng mịn, càng nhuyễn bao nhiêu càng thể hiện tấm lòng thành và sự đảm đang của cô dâu bấy nhiêu. Sau đám cưới, gạo đã giã nhuyễn được phân thành những bì nhỏ rồi phát cho họ hàng nhà trai. Họ sẽ mang về chế thành các món ăn phục vụ cho gia đình trong đó đặc biệt phải có món chẹ giâm, món ăn truyền thống truyền từ nhiều đời.
Nguyên liệu chính làm nên món chẹ giâm chính là xương và gạo. Có thể là xương bò, xương trâu, xương heo… nhưng để món ngon và không tạp vị người nấu chỉ nên dùng xương một loại động vật mà thôi. Thông thường sẽ chọn phần xương đùi và sườn. Nguyên liệu được rửa sạch sẽ, để ráo nước rồi bỏ vào chiếc nồi đất, đổ nước lấp xấp, bắc lên bếp đun lửa liu riu đến khi có nước ngọt vị xương. Gạo được ngâm trong nước khoảng 30 phút cho đến khi nở ra rồi cho vào cối giã, sau đó cho qua rây để sàng lấy bột mịn. Tiếp đó lấy nước đã ngâm gạo đổ vào bột rồi khuấy đều cho đến khi bột trở thành một hỗn hợp nước gạo mầu trắng đục, sánh quyện như sắn dây. Công đoạn tiếp theo là đổ nước gạo vào nồi đất bắc lên bếp, cho thêm bí đỏ, bí xanh rồi quấy đều không được ngơi tay khi sôi. Nhiệt độ của nồi đất kết hợp quá trình đảo liên tục của người nấu khiến cho gạo, thịt, rau củ bên trong được nhừ và hòa quyện vào nhau. Kiểm tra độ nhừ của thịt đủ tiêu chuẩn, người ta xắt nhỏ lá sả và rắc thêm tiêu vào nồi.
Nét độc đáo của món chẹ giâm còn là cách người Giẻ-Triêng thưởng thức món ăn. Già Brool Vẻ ở xã Đăk Dục, huyện Ngọc Hồi (Kon Tum) cho biết: "Theo đúng cách ăn của người Giẻ-Triêng thì chỉ dùng một chiếc máng lồ ô để ăn. Người này chuyền người kia mỗi người húp một ít, cứ thế xoay vòng. Cách ăn này cũng do ngày xưa đói lắm, mỗi người một chén thì không có đủ cho tất cả. Phải luân phiên như vậy thì từ người già, trẻ con, thanh niên san sẻ nhau từng miếng ăn, qua đó thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm".
Cũng theo già Brool Vẻ, những ngày đầu xây dựng thôn làng, cuộc sống của đồng bào Giẻ-Triêng rất khó khăn, cái ăn còn thiếu cho nên để ấm cái bụng, chẹ giâm đã ra đời. Ý nghĩa ban đầu của nó là tránh đói nhưng chính hương vị thơm ngon của món ăn đã cuốn hút mọi người. Khi cái ăn, cái uống đã đủ đầy, chẹ giâm vẫn xuất hiện trên mâm cơm như một món ăn gợi nhớ đến tình làng nghĩa xóm không thể thay đổi của người Giẻ-Triêng.