1. Nguồn gốc lịch sử:
Cách đây trên dưới 4.000 năm, có một bộ phận người Việt cổ sống ở vùng trung du và miền núi tỉnh Nghệ An, một phần ở tỉnh Thanh Hóa. Về sau, một nhóm chuyển xuống vùng đồng bằng, dần dần trở thành người Việt; bộ phận khác vẫn ở lại địa bàn cư trú cũ, chính là tổ tiên của người Thổ ngày nay.
Tên gọi khác: Người Nhà Làng, Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Ly Hà, Tày Pọng, Con Kha, Xá Lá Vàng...
2. Phân bố địa lý:
Thổ là tộc người cư trú ở vùng trung du và miền núi của 2 tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa. Ðịa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư từ bắc vào nam, từ miền xuôi lên miền ngược, những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy hòa nhập thành một cộng đồng chung dân tộc Thổ.
Người Thổ gồm nhiều nhóm địa phương:
- Thổ Mọn: Phần lớn có nguồn gốc từ người Mường, cư trú ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa và một số xã của các huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
- Thổ Kẹo (Kẻo) sinh sống chủ yếu ở xã Nghĩa Quang, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An.
- Thổ Lâm La cư trú tập trung ở các xã thuộc tổng Lâm La cũ, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Thổ Cuối sinh sống ở xã Nghĩa Quang, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An.
- Tày Poọng sống tập trung ở xã Tam Hợp, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
- Đan Lai - Ly Hà cư trú ở một số xã thuộc huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Ngoài ra, còn có một số tên gọi khác, như Thổ Giai Xuân, Con Kha, Họ. Trước đây, một bộ phận người Thổ còn được gọi là “Xá Lá Vàng” vốn là tên gọi chung chỉ các nhóm cư dân du canh du cư thiếu ổn định nhất.
3. Dân số, ngôn ngữ:
- Dân số: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, người Thổ có 91.430 nhân khẩu (47.019 nam, 44.411 nữ), đứng thứ 23 trong 54 tộc người ở nước ta.
- Ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Thổ, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường trong ngữ hệ Nam Á.
Thổ là tộc người cư trú ở vùng trung du và miền núi của 2 tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa. (Ảnh: THÀNH ĐẠT) |
4. Đặc điểm chính:
- Thiết chế xã hội truyền thống: Ðơn vị hành chính nhỏ nhất trước kia của người Thổ là làng (ngày nay được gọi là xóm) với một ông trùm làng đứng đầu. Trên làng về phương diện dân sự là mường. Tuy nhiên, tổ chức này ở vùng người Thổ rất mờ nhạt, không mang tính đặc trưng như mường của người Mường hoặc của người Thái. Đơn vị cư trú cơ bản của nhóm Tày Poọng và Đan Lai là bản hay bán; được lập những nơi cao ráo, bằng phẳng, gần nguồn nước giữa một thung lũng hay sườn dốc thoải, gần các khe (suối).
Gia đình người Thổ là tiểu gia đình phụ quyền, chủ yếu gồm 2 thế hệ cha mẹ và con cái; tính gia trưởng khá cao, ở các nhóm vùng thấp có sự phân biệt trưởng-thứ rõ ràng, giống như người Việt.
- Nhà ở: Nhà ở truyền thống của người Thổ là loại nhà sàn được che chung quanh bằng gỗ rừng, tre nứa, lá giản đơn; ở một số vùng, nhà được làm theo kiểu cột ngoãm, chỉ cần một con dao và cái rìu là dựng được nhà. Ngày nay, nhà cửa của người Thổ cũng đang trong quá trình chuyển từ nhà sàn sang nhà đất, nhiều nhà dựng được nhà tầng như kiểu nhà người Việt trong vùng.
- Tôn giáo, tín ngưỡng: Các nhóm Thổ đều có tín ngưỡng vạn vật hữu linh, là tín ngưỡng “chủ”. Cùng với thờ tổ tiên, người Thổ còn thờ thổ công, thần bếp, thổ địa, Thành hoàng, các loại ma (ma rừng, ma suối, ma cây, ma núi...).
Trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Thổ gồm áo trắng và váy kẻ sọc đen trắng. Phụ nữ Thổ sử dụng thắt lưng xanh giống phụ nữ dân tộc Thái trong vùng. (Ảnh: THÀNH ĐẠT) |
- Trang phục: Bộ nam phục gồm quần đũng rộng, màu nâu hoặc màu cháo lòng có cạp vấn; áo ngắn hoặc áo lương màu đen, đầu đội khăn nhiễu tím, chân đi guốc mộc. Phụ nữ Thổ mặc áo trắng; váy bằng vải sợi bông nhuộm chàm, dệt kẻ sọc ngang, khi mặc những đường sọc đó tạo thành vòng tròn song song quanh thân; đội khăn vuông trắng giống như người Mường và để tang bằng khăn dài trắng giống người Việt.
- Hôn nhân: Một tục lệ phổ biến và lâu đời, khá độc đáo của người Thổ là tục ngủ mái, cho phép con trai, con gái, trong những dịp hội hè, tết lễ được tự do trao đổi tâm tình, tuy nhiên không được có hành vi thiếu đúng đắn bởi dư luận và luật tục rất nghiêm minh. Từ những đêm ngủ mái, các lứa đôi dần dần hình thành, dẫn tới việc tiến hành những thể thức chính thức cho một cuộc hôn nhân.
- Ẩm thực: Trước đây, các nhóm Thổ vùng cao ăn cơm nếp đồ bằng hông là chính nhưng hiện nay hầu hết đã chuyển sang ăn gạo tẻ. Những khi giáp hạt đói kém họ thường ăn các loại củ, các loại rau và các loại quả hái ở rừng. Trong các ngày lễ, tết người Thổ thường làm các loại bánh chưng, bánh giầy, bánh gai.
Rượu (rượu sắn, rượu gạo, rượu cần) được cả nam, nữ ưa thích và là thứ không thể thiếu trong các dịp lễ tết. Bên cạnh đó, cả nam giới và phụ nữ các nhóm người Thổ cũng thích ăn trầu. Trầu được dùng để mời khách ngày thường, ngày Tết và dùng trong đám cưới.
- Giáo dục: Xưa kia, Người Thổ không có văn tự riêng, chỉ một số người biết chữ Hán. Ngày nay, tiếng Việt được phổ cập và sử dụng rộng rãi.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 94,9%, tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học 101,4%, tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở là 93,4%, tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông là 59,3%, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường là 9,2%.
Nghề đan võng gai không chỉ mang lại thu nhập cho người dân mà còn là một di sản văn hóa phi vật thể của người Thổ. (Ảnh: THÀNH ĐẠT) |
5. Điều kiện kinh tế:
Người Thổ sống chủ yếu dựa vào làm nương, rẫy và một số nhỏ làm ruộng nước. Cây lương thực được trồng chủ yếu là lúa sau đó đến sắn và ngô. Ở các nhóm Kẹo, Mọn, Cuối, gai là cây được trồng nhiều và giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế người dân. Ở người Thổ, nghề đánh cá cũng rất phát triển, săn bắt, hái lượm tuy chỉ phát triển ở một số vùng nhưng nó đã góp phần đáng kể vào việc giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống của người dân.
Những năm gần đây, hòa nhịp cùng sự phát triển của đất nước, bà con dân tộc Thổ đã triển khai mô hình vườn chuẩn nông thôn, phục hồi các mô hình làm bánh gai, đan võng gai… từng bước tăng thu nhập cho gia đình, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thổ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp của người Thổ là 0,45%; tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực phi nông nghiệp là 28,6%; tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo lần lượt là 13,5% và 24,4%; 93,2 % hộ gia đình sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh và 98,8% hộ sử dụng điện lưới để thắp sáng.
● Français: L’ethnie Thổ
● English: Tho ethnic group