Văn Cao – Một chân dung lớn

Văn Cao – Một chân dung lớn

Tại Hội thảo khoa học với chủ đề “Thế giới Nhạc, Họa, Thơ của Văn Cao” nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông (15/11/1923-15/11/2023), Giáo sư Phong Lê với bề dày nghiên cứu của mình đã đưa ra những nhận định sâu sắc về sự nghiệp sáng tác của Văn Cao, đặc biệt ở lĩnh vực âm nhạc và văn học, cũng như những đóng góp to lớn của ông đối với đất nước.

Nói Văn Cao, không chỉ ở thời điểm hôm nay, nhân kỷ niệm 100 năm năm sinh của ông, mà ngay từ 1945, đã là một tên tuổi nghệ sĩ lớn mà cả dân tộc Việt, nhân dân Việt, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già không ai không biết đến, và chịu ơn. Bởi ông là tác giả của Tiến quân ca, rồi trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ tháng Tám 1944, ở Tân Trào, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chọn Tiến quân ca làm Quốc ca. Kể từ ấy, Quốc ca đã vang lên trong ngày 17/9/1945 ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, rồi sáng 2/9/1945 ở Quảng trường Ba Đình trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.

Kể từ bấy đến nay, biết bao nhiêu thế hệ công dân Việt, thuộc tất cả các lứa tuổi, không ai không thuộc nằm lòng Tiến quân ca, như tiếng gọi của non sông Việt, và cũng là của chính tấm lòng mình, bởi nó là một sức mạnh tinh thần không gì đo đếm được, không có bút mực nào tả xiết được, nói lên sức mạnh vô biên, bất tận của dân tộc Việt Nam trước mọi thử thách trong hàng nghìn năm lịch sử.

Theo di nguyện của Văn Cao, gia đình nhạc sĩ đã hiến tặng bản quyền Quốc ca cho Tổ quốc, một nghĩa cử vĩ đại mà mỗi công dân Việt như chúng ta cần biết điều này để thấy rằng, nếu thực hiện chế độ bản quyền thì chỉ riêng nhuận bút của Tiến quân ca đủ đưa Văn Cao lên hàng tỷ phú, trong khi đời sống riêng của ông cho đến khi qua đời vẫn trong cảnh thanh bạch, khó khăn.

Như vậy là chỉ riêng Tiến quân ca đủ làm nên một tên tuổi, một sự nghiệp lớn của Văn Cao trong thế giới âm nhạc. Thế nhưng đây chỉ là một điểm nhấn. Bởi sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao còn phải ngược lên dăm năm trước 1945, trong tư cách một tác gia lớn trong thế giới tân nhạc, với Buồn tàn thu, Thiên thai, Bến xuân, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Đàn chim Việt... mà chỉ riêng mỗi tác phẩm cũng đủ làm vinh quang cho bất cứ ai.

Còn về sau Tiến quân ca? Đó còn là hoặc càng là một sự nghiệp còn lớn hơn, trên một hành trình dài với rất nhiều nguồn mạch, tỏa ra nhiều hướng, soi vào đấy - là cả một dàn giao hưởng của đời sống kháng chiến, với Bắc Sơn, Chiến sĩ Việt Nam; Công nhân Việt Nam; với Làng tôi Ngày mùa; với Hải quân Việt Nam Không quân Việt Nam, với Trường ca Sông Lô Tiến về Hà Nội và với Ca ngợi Hồ Chủ tịch… Tất cả tràn ngập âm hưởng hào hùng, lạc quan, giàu sức khám phá và khả năng tiên tri về công cuộc kháng chiến và hành trình dân tộc…

Nói âm nhạc của Văn Cao là nói một sự nghiệp ở tầm cao, rất cao của một tài năng lớn.

Giáo sư Phong Lê

Sự nghiệp âm nhạc vĩ đại của Văn Cao còn nối dài đến 1975 với tác phẩm Mùa xuân đầu tiên như một sự đón đợi kỳ diệu niềm vui đoàn tụ của hai miền nam bắc sau 20 năm bị chia cắt; dẫu phải đến thập niên 1990 công chúng mới được biết đến.

Như vậy, nói âm nhạc của Văn Cao là nói một sự nghiệp ở tầm cao, rất cao của một tài năng lớn; tôi chỉ có thể gợi dẫn đôi điều trong tư cách một công dân Việt có vinh dự được sống cùng thời với ông để ngưỡng mộ và chịu ơn ông.

Bên cạnh tư cách một nhạc sĩ lớn mà cả dân tộc phải chịu ơn, nói Văn Cao còn là nói đến một nhà thơ lớn - mà tôi không phải phân vân khi chọn từ này, bởi ông là tác giả của không ít bài thơ làm tổ được trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ, ít ra là thế hệ tôi.

Không nói đến chất thơ thấm đẫm trong nhiều nhạc phẩm thời Tân nhạc trước 1945, sau một số bài thơ rất được người đọc nhớ và thuộc trước 1945 như Quê lòng, Đêm mưa, Ai về Kinh Bắc, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Văn Cao bỗng rất ấn tượng trong bài Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc, ra đời đúng thời điểm tháng Tám năm 1945, ghi nhận rất kịp thời thảm cảnh hai triệu người dân Việt chết đói; để cùng với những trang văn trong Địa ngục của Nguyên Hồng và ảnh của Võ An Ninh mà làm nên một Bảo tàng chứng tích tội ác của chủ nghĩa thực dân và ơn đổi đời của Cách mạng Tháng Tám...

Một vài cuốn sách do Văn Cao vẽ bìa minh họa được trưng bày tại Triển lãm bên lề Hội thảo. (Ảnh: Hà Nam)

Một vài cuốn sách do Văn Cao vẽ bìa minh họa được trưng bày tại Triển lãm bên lề Hội thảo. (Ảnh: Hà Nam)

Là trường ca Những người trên cửa biển với câu mở đầu “Sinh ra tôi đã có Hải Phòng” mà bất cứ người Việt Nam nào, trước hết là người dân Hải Phòng hiếm ai không nhớ; tựa như nhớ về Bà Huyện Thanh Quan trong bài Qua đèo Ngang. Bên nhiều bài lẻ, Văn Cao còn có cả một tập thơ có tên viết âm thầm trong những năm khó khăn do sự kiện Nhân văn-Giai phẩm mà ông vướng phải, kéo dài từ 1956 đến 1986.

Sau thơ, còn là văn - là văn xuôi, với các truyện ngắn mà một số đã được đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy - năm 1943, như Dọn nhà, Siêu nước nóng… góp một sắc màu riêng vào trào lưu văn học hiện thực cuối mùa bên Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Kim Lân, Nguyễn Đình Lạp…

Và - chưa phải là cuối cùng, Văn Cao còn một sự nghiệp rất đáng ghi nhận về hội họa, trong tư cách một họa sĩ, ngay từ trước1945, với các bức tranh có tên Thái Hà ấp đêm mưa, Cuộc khiêu vũ của những người tự tử trong một Triển lãm nghệ thuật năm 1943.

Vào những năm ấy, tác giả nào được Văn Cao vẽ bìa cũng đều rất vui sướng và hãnh diện, vì sự sáng tạo và nét tài hoa qua một chữ Văn trên một góc nhỏ của trang bìa.

-- Giáo sư PHONG LÊ --

Chính tư chất họa sĩ tài hoa đã “cứu” Văn Cao trong suốt 30 năm hoạn nạn. Ông không thể hoặc không được phép làm nhạc, làm thơ, mà chỉ có thể được vẽ để kiếm sống bằng các tranh minh họa cho báo, sách và làm bìa cho sách; và tôi nhớ, vào những năm ấy, tác giả nào được Văn Cao vẽ bìa cũng đều rất vui sướng và hãnh diện, vì sự sáng tạo và nét tài hoa qua một chữ Văn trên một góc nhỏ của trang bìa.

Bấy nhiêu điều về một nghệ sĩ lớn, với đóng góp trên nhiều lĩnh vực thơ văn, nhạc, họa; và ở lĩnh vực nào cũng đạt đỉnh cao, hoặc để lại dấu ấn sâu đậm như Văn Cao, tôi - một công dân Việt bình thường, chỉ có thể nói được đôi điều, với sự ngưỡng mộ và tấm lòng biết ơn. Để có thể phác dựng hoặc đi sâu vào sự nghiệp đó cần các chuyên gia trên từng lĩnh vực, và tôi rất chờ đợi, rất mong được đọc, được học trong dịp kỷ niệm 100 năm năm sinh Văn Cao vào 15/1/2023 này.

Có thể bạn quan tâm

Ca sĩ Hồ Ngọc Hà: "Nhiều dự án tại Hành động vì Cộng đồng đã làm lay động trái tim người mẹ như tôi". (Ảnh: THỦY NGUYÊN)

Ca sĩ Hồ Ngọc Hà: "Nhiều dự án tại Giải thưởng Hành động vì Cộng đồng đã làm lay động trái tim người mẹ như tôi"

Ngày 15/11, có mặt tại Vòng Chung kết Giải thưởng Hành động vì Cộng đồng - Human Act Prize 2025 với vai trò thành viên Ban Giám khảo, ca sĩ Hồ Ngọc Hà đã có những chia sẻ hết sức xúc động. Đồng cảm và sẻ chia với các tác giả, nữ ca sĩ đã ủng hộ nhiều dự án bằng cả vật chất, hành động và tinh thần.

[Ảnh] Triển lãm Hành động vì Cộng đồng 2025 - Không gian lan tỏa tình yêu thương và lòng nhân ái

[Ảnh] Triển lãm Hành động vì Cộng đồng 2025 - Không gian lan tỏa tình yêu thương và lòng nhân ái

Ngày 15/11, dưới cái nắng trong vắt và dịu dàng bên hồ Hoàn Kiếm, trong khuôn viên Báo Nhân Dân (71 Hàng Trống, Hà Nội), đã diễn ra Triển lãm Hành động vì Cộng đồng 2025 với chủ đề "Kiên trì phụng sự". Một không gian tuy nhỏ bé nhưng đầy ắp tình thương và lòng nhân ái, mang đến cho khách tham quan những xúc cảm đặc biệt.

Trải nhgiệm tính toán dấu chân carbon của bạn

Trải nhgiệm tính toán dấu chân carbon của bạn

Game tính Dấu chân carbon giúp người chơi khám phá và hiểu rõ tác động của các hành động hàng ngày đến môi trường thông qua lượng khí thải carbon. Người chơi sẽ đưa ra lựa chọn trong các tình huống đời sống thực tế và xem mức độ phát thải CO₂ tương ứng.

Các phân khu triển lãm có các bạn thuyết minh và giới thiệu về trải nghiệm tương tác.

Thêm tự hào và biết ơn trong hành trình khám phá triển lãm "95 năm Cờ Đảng soi đường"

Giữa không gian đầy sôi động của triển lãm "95 năm Cờ Đảng soi đường", có các em nhỏ ồ lên thích thú với các hình ảnh, video hấp dẫn; có những bạn trẻ háo hức trải nghiệm tương tác; và có những cựu chiến binh, người cao tuổi lặng lẽ đi hết các phân khu để xem từng hiện vật, hồi tưởng lại lịch sử một thời gian khó... 

80 năm ngoại giao Việt Nam

80 năm ngoại giao Việt Nam

Ngoại giao Việt Nam đã trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, luôn tận tụy phụng sự quốc gia, dân tộc, đóng góp lớn vào thành tựu chung, có ý nghĩa lịch sử của đất nước.

Việt Nam - Hoa Kỳ

Việt Nam - Hoa Kỳ

Trong ba thập kỷ, việc hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ cựu thù thành Đối tác chiến lược toàn diện còn được xem là hình mẫu trong nỗ lực vượt qua khác biệt, thúc đẩy hòa bình, hợp tác hướng tới tương lai.

"Tôi đã trưởng thành từ một Cuba đầy nghĩa tình"

"Tôi đã trưởng thành từ một Cuba đầy nghĩa tình"

Năm 1978, người thanh niên Nguyễn Viết Thảo của miền Quan họ Bắc Ninh - khi ấy vừa tròn 18 tuổi - được lựa chọn là một trong năm lưu học sinh Việt Nam sang học tập tại Cuba. Đặt chân đến vùng đất Caribe xa xôi, ông mang theo hành trang là lòng nhiệt huyết và khát khao học tập.

Việt Nam - Thái Lan

Việt Nam - Thái Lan

Cùng nằm ở Đông Nam Á, Việt Nam và Thái Lan có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, cũng như văn hóa và điều kiện kinh tế. Đây là tiền đề quan trọng và thuận lợi để quan hệ Việt Nam-Thái Lan sớm hình thành trong lịch sử.
[TTCS] Kinh tế tư nhân

[TTCS] Kinh tế tư nhân

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025, khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; cần được cụ thể hóa trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước.
Sáng mãi phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ-Người chiến sĩ hải quân”

Sáng mãi phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ-Người chiến sĩ hải quân”

Ra đời khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn vô cùng khó khăn gian khổ, Quân chủng Hải quân vừa xây dựng vừa chiến đấu và lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dù trong lửa đạn chiến tranh, hay trong hòa bình độc lập, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ-Người chiến sĩ hải quân” vẫn luôn tỏa sáng và được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng nâng niu trân trọng, gìn giữ và phát huy, để mãi xứng đáng là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đặc công người nhái huấn luyện

Một ngày với chiến sĩ Đặc công Hải quân

Trải qua 59 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, với tinh thần quả cảm, táo bạo, mưu trí và sáng tạo, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 đã vượt qua muôn vàn thử thách, hy sinh, lập nên những chiến công xuất sắc và đặc biệt xuất sắc trên chiến trường sông biển. Họ đã cùng nhau xây đắp truyền thống vẻ vang: “Anh dũng mưu trí - Khắc phục khó khăn - Đoàn kết lập công - Chiến thắng liên tục”, xứng đáng là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ và thiện chiến của Quân chủng Hải quân.
Lễ thượng cờ Tàu ngầm 186 - Đà Nẵng

Luyện quân ở đơn vị 4 “đặc biệt”

4 yêu cầu đối với cán bộ, thủy thủ tàu ngầm là: “lòng trung thành đặc biệt, tinh thần đoàn kết đặc biệt, tính kỷ luật đặc biệt và bảo đảm bí mật đặc biệt”. Trải qua gần 14 năm xây dựng, phát triển, Lữ đoàn Tàu ngầm 189 đã và đang trưởng thành, lớn mạnh. Quân chủng Hải quân có thêm lực lượng mới tinh nhuệ, hiện đại, góp phần nâng cao khả năng SSCĐ, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Cán bộ, nhân viên Phòng Kỹ thuật-Công nghệ, Nhà máy X46 đã nghiên cứu chế tạo thành công thiết bị tháo, kiểm tra, sửa chữa khối côn ma sát tiến ly hợp động cơ M500.

Ứng dụng công nghệ mới nâng cao năng lực sửa chữa tàu

Nhà máy X46, Cục Hậu cần-Kỹ thuật Hải quân được thành lập ngày 26/4/1955. Đây là cơ sở đầu tiên đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật cho Quân chủng Hải quân. Kế thừa, phát huy truyền thống 70 năm xây dựng và phát triển, Nhà máy đã đầu tư trang bị hiện đại và ứng dụng khoa học công nghệ mới trong lao động sản xuất, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Chuyển hàng xuống tàu chi viện cho chiến trường miền nam. (Ảnh tư liệu)

Kỳ 4: Lập công xuất sắc trong vận chuyển chi viện miền nam và đặc công hải quân chiến đấu ở Cửa Việt-Đông Hà

Tháng 10/1963, Đoàn 759 chuyển về trực thuộc Quân chủng Hải quân và tháng 1/1964 đổi tên là Đoàn 125 Hải quân, hay còn gọi là Đoàn tàu “không số”. Trước đó, ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759 - vận tải quân sự đường biển, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng.
Tàu tuần tiễu của Tiểu đoàn 100, Trung đoàn 171 bảo vệ cầu Long Biên, tháng 5/1967. (Ảnh tư liệu)

Kỳ 3: Tham gia chống chiến tranh phá hoại miền bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ

Bị thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược bằng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và mở cuộc leo thang chiến tranh phá hoại miền bắc bằng không quân và hải quân hòng đè bẹp ý chí quyết tâm giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Hải quân nhân dân Việt Nam đánh trả máy bay Mỹ bắn phá miền bắc ngày 5/8/1964. (Ảnh tư liệu: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)

Kỳ 2: Quân chủng Hải quân chiến đấu và xây dựng, trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1964-1975)

Trước yêu cầu của tình hình mới, ngày 3/1/1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 01/QP-QĐ nâng cấp Cục Hải quân thành Quân chủng Hải quân, Ban chỉ huy Cục thành Bộ Tư lệnh Quân chủng, với nhiệm vụ: “Chỉ huy, lãnh đạo xây dựng Quân chủng Hải quân, đảm nhận nhiệm vụ hoạt động chiến đấu trên không phận, hải phận, bờ biển miền bắc”. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới cả về quy mô tổ chức và sức mạnh chiến đấu của Hải quân, lực lượng nòng cốt trong quản lý, bảo vệ chủ quyền và chiến đấu trên chiến trường sông biển, hải đảo của Tổ quốc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc quyết định thành lập thủy đội Sông Lô, Bạch Đằng ngày 24/8/1955. (Ảnh tư liệu)

Kỳ 1: Hải quân nhân dân Việt Nam ra đời, xây dựng và phát triển trong điều kiện hòa bình

Để bảo vệ, giữ vững trật tự an ninh trên các vùng duyên hải, chống mọi hoạt động của bọn hải phỉ, biệt kích, đặc vụ, bảo đảm an toàn cho nhân dân đi lại làm ăn trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, ngày 26/4/1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trường Huấn luyện bờ bể (phiên hiệu C45) và Xưởng sửa chữa tàu thuyền (phiên hiệu C46), là hai cơ sở bảo đảm về kỹ thuật hải quân và đào tạo cán bộ của Cục Phòng thủ bờ bể sẽ ra đời sau đó.
Tàu của Đoàn 125 chở đặc công ra giải phóng Trường Sa

Bộ đội đặc công tham gia giải phóng Trường Sa

Ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị "vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ". Kiến nghị này đã được ghi trong Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25/3/1975.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc quyết định thành lập hai thủy đội Sông Lô và Bạch Đằng, ngày 24/8/1955. (Ảnh tư liệu)

Kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân: Thành lập Hải quân Nhân dân Việt Nam

Thực hiện nghị quyết của Tổng Quân ủy, để chuẩn bị thành lập Cục Phòng thủ bờ bể, ngày 26/4/1955, Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh ra quyết định thành lập Trường Huấn luyện bờ bể (mang phiên hiệu C45) và Xưởng sửa chữa tàu thuyền (mang phiên hiệu C46). Đây là hai cơ sở trực thuộc Cục Phòng thủ bờ bể sẽ thành lập sau đó.
Đồng chí Đỗ Mười, Nguyễn Chánh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp duyệt 2 thủy đội Sông Lô, Bạch Đằng trên sông Cấm, ngày 24/8/1955. Ảnh tư liệu

Bên bờ sông Cấm

Sông Cấm Hải Phòng là dòng sông lớn gắn với nhiều sự kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống... của địa phương. Đôi bờ sông này còn là nơi đóng quân của Xưởng sửa chữa tàu thuyền (C46), nay là Nhà máy X46, Cục Hậu cần-Kỹ thuật Hải quân và Trường Huấn luyện bờ bể (C45), nay là Học viện Hải quân. Và cũng chính tại nơi đây, 70 năm về trước đã chứng kiến cuộc thao diễn ra mắt 2 thủy đội sông Lô và Bạch Đằng.