Nguồn gốc và ý nghĩa của Tết Trung thu

Trong sách sử chính thống hoặc tư liệu, tài liệu sử để lại, chưa có thông tin nào xác định rõ nguồn gốc của Trung thu, hay còn gọi là Tết trông trăng. Chỉ biết rằng, Tết Trung thu từ rất lâu rồi không những là ngày Tết của trẻ em, mà còn là dịp thưởng thức những sản vật của mùa thu đang vào độ ngon nhất trong năm, trổ tài nấu nướng, trang trí, và cũng là lúc cả gia đình quần tụ, đoàn viên, như hình ảnh mặt trăng tròn vành vạnh.
Một đám trẻ chuẩn bị rước đèn. (Ảnh trong bộ sưu tập của nhà sử học Dương Trung Quốc)
Một đám trẻ chuẩn bị rước đèn. (Ảnh trong bộ sưu tập của nhà sử học Dương Trung Quốc)

Không ai biết Tết Trung thu có từ bao giờ, hoặc chính thức từ khi nào người Việt bắt đầu “ăn” Tết Trung thu. Sách “Việt Nam phong tục” của soạn giả Phan Kế Bính, có ghi lại rằng, Tết Trung thu còn gọi là Tết trẻ em, với tục treo đèn bày cỗ xuất phát từ điển tích liên quan đến lễ sinh nhật vua Đường Minh Hoàng, cả nước treo đèn kết hoa, lâu dần thành tục lệ. Và ở Việt Nam, do những ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa, cũng theo tục treo đèn vào đêm rằm tháng Tám.

Đèn lồng hình cá đẹp lộng lẫy. (Ảnh trong bộ sưu tập của nhà sử học Dương Trung Quốc)

Đèn lồng hình cá đẹp lộng lẫy. (Ảnh trong bộ sưu tập của nhà sử học Dương Trung Quốc)

Cụ Phan Kế Bính còn lý giải, tục rước đèn có từ đời Tống, truyền rằng thời vua Nhân Tôn có con cá chép thành yêu tinh, cứ đêm trăng lại biến thành cô gái làm hại người. Lúc đó ông Bao Công giúp dân làm chiếc đèn hình con cá để soi khi đi ngoài đường, khiến con tinh cá chép sợ mà không dám hại người nữa. Cụ Phan Kế Bính cũng giải thích thêm: “Lời ấy huyền hoặc lắm, vị tất đã thật”.

Sách “Hội hè lễ tết của người Việt” của tác giả Nguyễn Văn Huyên cũng đề cập đến sự tích Trung thu liên quan đến vua Đường Minh Hoàng (thế kỷ VII): “Một đêm rằm tháng Tám, vua ra khỏi cung và được một đạo sĩ chống gậy đến mời lên cung trăng dạo chơi”. Nhà vua đã thấy một thế giới khác hẳn trần gian, cây cối đang trổ hoa, thảm cỏ thơm và mượt như nhung, cung điện nguy nga có chữ “Cung Quảng Hàn”, những nàng thiếu nữ xinh đẹp mặc xiêm hồng và áo trắng múa theo nhạc. Lúc trở về trần gian, nhớ những kỳ quan trên cung trăng, nhà vua đã sai các cung tần múa và đàn ca điệu này”.

Sách “Bắc Kỳ tạp lục” của Henri-Emmanuel Souvignet xuất bản năm 1903 viết ngắn gọn: “Ngày 15 tháng Tám âm lịch, Tết Trung thu, trong ngày này mọi người làm và ăn những chiếc bánh có hình mặt trăng (bánh nguyệt hay bánh mặt trăng)”.

Thậm chí, trong sách “Việt Nam Văn Minh Sử” của tác giả Lê Văn Siêu hồi đầu thế kỷ 20, khi phân tích các hình ảnh trên trống đồng Ngọc Lũ (văn hóa Đông Sơn cách đây khoảng 2.500 năm), cũng đề cập đến tháng Tám trăng sáng nhất, cùng các công việc chuẩn bị hội hè trước ngày đông chí, trùng hợp với khoảng thời gian diễn ra Tết Trung thu sau này.

Ý nghĩa Tết Trung thu

Tết Trung thu diễn ra cũng vào thời điểm kết thúc mùa vụ, công việc nhà nông đỡ bận rộn hơn, các sản vật thu hoạch cũng dồi dào. Khác với Tết Nguyên đán đầu năm mang ý nghĩa kết thúc năm cũ và đón mừng một năm mới, Tết Trung thu có nhiều ý nghĩa, mang những ước vọng, mong muốn của những tầng lớp xã hội khác nhau, như đoán định mùa vụ năm tới, đoán định vận nước, vận vua, cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gửi gắm ước nguyện thành đạt, có vị trí trong xã hội, trong triều đình, thưởng thức những sản vật ở độ ngon nhất trong năm (tổng kết một mùa vụ). Tết Trung thu cũng mang ý nghĩa sự tụ họp, đoàn viên trong gia đình.

Cuốn “Hội hè lễ tết của người Việt” của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên đề cập đến khá nhiều ý nghĩa khác nhau của Tết Trung thu.

GS, TS, nhà sử học, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam Nguyễn Văn Huyên phân tích: “Các lễ hội của người Việt đều theo mùa, nghĩa là có liên hệ với sự nối tiếp của thời gian. Ở nơi nghề nông chiếm vai trò hàng đầu này, mọi người rất coi trọng những trận mưa làm cho đất đai màu mỡ. Ở xứ này, rồng là biểu tượng của mưa và sự phì nhiêu … Trong ý thức dân gian, rồng có vai trò hàng đầu trong sự điều tiết các cơn mưa sinh ra những vụ thu hoạch tốt là nguồn gốc của hòa bình xã hội và chính trị… Hội rồng thực sự là vào Trung thu. Nó phải bảo vệ các mùa gặt lớn tháng Mười”. Đó cũng là lý do người ta rước rồng long trọng qua các phố, với những tấm biển sáng có hàng chữ “Hoàng Long Thịnh Thế” (mong rồng vàng làm cho cuộc sống phồn thịnh) hay “Thiên Hạ Thái Bình”. Đó là mong ước bảo đảm cho mình có cuộc sống phồn thịnh và sự yên ổn…”

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên cũng cũng đề cập đến việc tiên đoán các mùa vụ sau dựa trên dáng vẻ của trăng. Người ta sẽ rút ra các điềm báo trước tương lai của đất nước dựa trên hình dáng và màu sắc của trăng đểm rằm, thí dụ như sẽ có một vụ mùa bội thu, tằm nhả nhiều tơ, đất nước thái bình và đức hạnh, thế gian vui vẻ, hay vua đam mê tửu sắc, bạo hành, hoặc sắp có nổi loạn hay chiến tranh…

Cụ Nguyễn Văn Huyên còn nhắc đến ý nghĩa “Tết dạm hỏi” của Tết Trung thu, do đây là dịp nam nữ gặp gỡ nhau, hò hát đối với nhau, làm quen và nên duyên.

Quote: Trung thu, Tết của mặt trăng, đồng thời cũng là tết dạm hỏi, lúc cả nam và nữ đều tìm cách làm vừa ý người khác và tìm thấy trong đám đông người bạn đời tương lai của mình. Họ tụ tập từng nhóm từ 6-8 người, ngay lúc sẩm tối, trước cửa hay trong sân nhà mình. Họ đứng thành hai phe, một phe nữ, một phe nam. Và họ vừa hát đối vừa ngắm trăng. Tiếp theo những cảnh hát đối dáp này thường là lễ dạm hỏi và cưới xin… (Hội hè lễ tết của người Việt - Nguyễn Văn Huyên)

Sau này, Tết Trung thu cũng trở thành cái Tết ngắm trăng, thưởng trà và làm thơ của nhiều nhà nho có tính nghệ sĩ. Họ đã nâng thú ăn chơi Tết Trung thu lên thành một loại nghệ thuật, cầu kỳ từ cách thưởng trà, ngắm trăng…

Còn đối với giới học trò, Trung thu như ngày tết của tương lai, mở đầu cho các kỳ đỗ đạt sắp tới. Các biểu tượng cho việc học hành thành tài, đỗ đạt vinh quang và được bổ vào các chức quan cao của triều đình là con cóc ba chân (cóc vàng), cây nguyệt quế, cá chép (cá chép vượt vũ môn, cá chép nuốt trăng). Các đồ chơi mang hình tượng ông tiến sĩ, trạng nguyên… bày trên mâm cỗ Trung thu cũng mang ý nghĩa này.

Đối với trẻ nhỏ, Trung thu là một lễ hội thực sự dành riêng cho mình, với đầy đủ từ đồ ăn đến đồ chơi. Và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Trung thu cũng trùng với thời điểm đến trường của trẻ em, vì thế Trung thu còn mang ý nghĩa gửi gắm ước vọng học hành thành tài của cha mẹ đối với trẻ nhỏ, thông qua các món đồ chơi hay vật dụng được bày trên mâm cỗ.

Có thể bạn quan tâm

[Ảnh] Triển lãm Hành động vì Cộng đồng 2025 - Không gian lan tỏa tình yêu thương và lòng nhân ái

[Ảnh] Triển lãm Hành động vì Cộng đồng 2025 - Không gian lan tỏa tình yêu thương và lòng nhân ái

Ngày 15/11, dưới cái nắng trong vắt và dịu dàng bên hồ Hoàn Kiếm, trong khuôn viên Báo Nhân Dân (71 Hàng Trống, Hà Nội), đã diễn ra Triển lãm Hành động vì Cộng đồng 2025 với chủ đề "Kiên trì phụng sự". Một không gian tuy nhỏ bé nhưng đầy ắp tình thương và lòng nhân ái, mang đến cho khách tham quan những xúc cảm đặc biệt.

Trải nhgiệm tính toán dấu chân carbon của bạn

Trải nhgiệm tính toán dấu chân carbon của bạn

Game tính Dấu chân carbon giúp người chơi khám phá và hiểu rõ tác động của các hành động hàng ngày đến môi trường thông qua lượng khí thải carbon. Người chơi sẽ đưa ra lựa chọn trong các tình huống đời sống thực tế và xem mức độ phát thải CO₂ tương ứng.

Các phân khu triển lãm có các bạn thuyết minh và giới thiệu về trải nghiệm tương tác.

Thêm tự hào và biết ơn trong hành trình khám phá triển lãm "95 năm Cờ Đảng soi đường"

Giữa không gian đầy sôi động của triển lãm "95 năm Cờ Đảng soi đường", có các em nhỏ ồ lên thích thú với các hình ảnh, video hấp dẫn; có những bạn trẻ háo hức trải nghiệm tương tác; và có những cựu chiến binh, người cao tuổi lặng lẽ đi hết các phân khu để xem từng hiện vật, hồi tưởng lại lịch sử một thời gian khó... 

80 năm ngoại giao Việt Nam

80 năm ngoại giao Việt Nam

Ngoại giao Việt Nam đã trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, luôn tận tụy phụng sự quốc gia, dân tộc, đóng góp lớn vào thành tựu chung, có ý nghĩa lịch sử của đất nước.

Việt Nam - Hoa Kỳ

Việt Nam - Hoa Kỳ

Trong ba thập kỷ, việc hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ cựu thù thành Đối tác chiến lược toàn diện còn được xem là hình mẫu trong nỗ lực vượt qua khác biệt, thúc đẩy hòa bình, hợp tác hướng tới tương lai.

"Tôi đã trưởng thành từ một Cuba đầy nghĩa tình"

"Tôi đã trưởng thành từ một Cuba đầy nghĩa tình"

Năm 1978, người thanh niên Nguyễn Viết Thảo của miền Quan họ Bắc Ninh - khi ấy vừa tròn 18 tuổi - được lựa chọn là một trong năm lưu học sinh Việt Nam sang học tập tại Cuba. Đặt chân đến vùng đất Caribe xa xôi, ông mang theo hành trang là lòng nhiệt huyết và khát khao học tập.

Việt Nam - Thái Lan

Việt Nam - Thái Lan

Cùng nằm ở Đông Nam Á, Việt Nam và Thái Lan có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, cũng như văn hóa và điều kiện kinh tế. Đây là tiền đề quan trọng và thuận lợi để quan hệ Việt Nam-Thái Lan sớm hình thành trong lịch sử.
[TTCS] Kinh tế tư nhân

[TTCS] Kinh tế tư nhân

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025, khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; cần được cụ thể hóa trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước.
Sáng mãi phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ-Người chiến sĩ hải quân”

Sáng mãi phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ-Người chiến sĩ hải quân”

Ra đời khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn vô cùng khó khăn gian khổ, Quân chủng Hải quân vừa xây dựng vừa chiến đấu và lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dù trong lửa đạn chiến tranh, hay trong hòa bình độc lập, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ-Người chiến sĩ hải quân” vẫn luôn tỏa sáng và được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng nâng niu trân trọng, gìn giữ và phát huy, để mãi xứng đáng là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đặc công người nhái huấn luyện

Một ngày với chiến sĩ Đặc công Hải quân

Trải qua 59 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, với tinh thần quả cảm, táo bạo, mưu trí và sáng tạo, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 đã vượt qua muôn vàn thử thách, hy sinh, lập nên những chiến công xuất sắc và đặc biệt xuất sắc trên chiến trường sông biển. Họ đã cùng nhau xây đắp truyền thống vẻ vang: “Anh dũng mưu trí - Khắc phục khó khăn - Đoàn kết lập công - Chiến thắng liên tục”, xứng đáng là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ và thiện chiến của Quân chủng Hải quân.
Lễ thượng cờ Tàu ngầm 186 - Đà Nẵng

Luyện quân ở đơn vị 4 “đặc biệt”

4 yêu cầu đối với cán bộ, thủy thủ tàu ngầm là: “lòng trung thành đặc biệt, tinh thần đoàn kết đặc biệt, tính kỷ luật đặc biệt và bảo đảm bí mật đặc biệt”. Trải qua gần 14 năm xây dựng, phát triển, Lữ đoàn Tàu ngầm 189 đã và đang trưởng thành, lớn mạnh. Quân chủng Hải quân có thêm lực lượng mới tinh nhuệ, hiện đại, góp phần nâng cao khả năng SSCĐ, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Cán bộ, nhân viên Phòng Kỹ thuật-Công nghệ, Nhà máy X46 đã nghiên cứu chế tạo thành công thiết bị tháo, kiểm tra, sửa chữa khối côn ma sát tiến ly hợp động cơ M500.

Ứng dụng công nghệ mới nâng cao năng lực sửa chữa tàu

Nhà máy X46, Cục Hậu cần-Kỹ thuật Hải quân được thành lập ngày 26/4/1955. Đây là cơ sở đầu tiên đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật cho Quân chủng Hải quân. Kế thừa, phát huy truyền thống 70 năm xây dựng và phát triển, Nhà máy đã đầu tư trang bị hiện đại và ứng dụng khoa học công nghệ mới trong lao động sản xuất, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Chuyển hàng xuống tàu chi viện cho chiến trường miền nam. (Ảnh tư liệu)

Kỳ 4: Lập công xuất sắc trong vận chuyển chi viện miền nam và đặc công hải quân chiến đấu ở Cửa Việt-Đông Hà

Tháng 10/1963, Đoàn 759 chuyển về trực thuộc Quân chủng Hải quân và tháng 1/1964 đổi tên là Đoàn 125 Hải quân, hay còn gọi là Đoàn tàu “không số”. Trước đó, ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759 - vận tải quân sự đường biển, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng.
Tàu tuần tiễu của Tiểu đoàn 100, Trung đoàn 171 bảo vệ cầu Long Biên, tháng 5/1967. (Ảnh tư liệu)

Kỳ 3: Tham gia chống chiến tranh phá hoại miền bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ

Bị thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược bằng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và mở cuộc leo thang chiến tranh phá hoại miền bắc bằng không quân và hải quân hòng đè bẹp ý chí quyết tâm giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Hải quân nhân dân Việt Nam đánh trả máy bay Mỹ bắn phá miền bắc ngày 5/8/1964. (Ảnh tư liệu: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)

Kỳ 2: Quân chủng Hải quân chiến đấu và xây dựng, trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1964-1975)

Trước yêu cầu của tình hình mới, ngày 3/1/1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 01/QP-QĐ nâng cấp Cục Hải quân thành Quân chủng Hải quân, Ban chỉ huy Cục thành Bộ Tư lệnh Quân chủng, với nhiệm vụ: “Chỉ huy, lãnh đạo xây dựng Quân chủng Hải quân, đảm nhận nhiệm vụ hoạt động chiến đấu trên không phận, hải phận, bờ biển miền bắc”. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới cả về quy mô tổ chức và sức mạnh chiến đấu của Hải quân, lực lượng nòng cốt trong quản lý, bảo vệ chủ quyền và chiến đấu trên chiến trường sông biển, hải đảo của Tổ quốc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc quyết định thành lập thủy đội Sông Lô, Bạch Đằng ngày 24/8/1955. (Ảnh tư liệu)

Kỳ 1: Hải quân nhân dân Việt Nam ra đời, xây dựng và phát triển trong điều kiện hòa bình

Để bảo vệ, giữ vững trật tự an ninh trên các vùng duyên hải, chống mọi hoạt động của bọn hải phỉ, biệt kích, đặc vụ, bảo đảm an toàn cho nhân dân đi lại làm ăn trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, ngày 26/4/1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trường Huấn luyện bờ bể (phiên hiệu C45) và Xưởng sửa chữa tàu thuyền (phiên hiệu C46), là hai cơ sở bảo đảm về kỹ thuật hải quân và đào tạo cán bộ của Cục Phòng thủ bờ bể sẽ ra đời sau đó.
Tàu của Đoàn 125 chở đặc công ra giải phóng Trường Sa

Bộ đội đặc công tham gia giải phóng Trường Sa

Ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị "vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ". Kiến nghị này đã được ghi trong Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25/3/1975.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc quyết định thành lập hai thủy đội Sông Lô và Bạch Đằng, ngày 24/8/1955. (Ảnh tư liệu)

Kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân: Thành lập Hải quân Nhân dân Việt Nam

Thực hiện nghị quyết của Tổng Quân ủy, để chuẩn bị thành lập Cục Phòng thủ bờ bể, ngày 26/4/1955, Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh ra quyết định thành lập Trường Huấn luyện bờ bể (mang phiên hiệu C45) và Xưởng sửa chữa tàu thuyền (mang phiên hiệu C46). Đây là hai cơ sở trực thuộc Cục Phòng thủ bờ bể sẽ thành lập sau đó.
Đồng chí Đỗ Mười, Nguyễn Chánh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp duyệt 2 thủy đội Sông Lô, Bạch Đằng trên sông Cấm, ngày 24/8/1955. Ảnh tư liệu

Bên bờ sông Cấm

Sông Cấm Hải Phòng là dòng sông lớn gắn với nhiều sự kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống... của địa phương. Đôi bờ sông này còn là nơi đóng quân của Xưởng sửa chữa tàu thuyền (C46), nay là Nhà máy X46, Cục Hậu cần-Kỹ thuật Hải quân và Trường Huấn luyện bờ bể (C45), nay là Học viện Hải quân. Và cũng chính tại nơi đây, 70 năm về trước đã chứng kiến cuộc thao diễn ra mắt 2 thủy đội sông Lô và Bạch Đằng.
Một chiếc tàu Không số chuyển vũ khí, đạn dược vào miền nam. Ảnh tư liệu

Nơi xuất phát của chuyến tàu Không số đặc biệt

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Bình có vị trí chiến lược hết sức quan trọng: tuyến đầu của miền bắc Xã hội chủ nghĩa và hậu phương trực tiếp của chiến trường miền nam; là địa bàn trung chuyển chiến lược, chi viện sức người, sức của cho chiến trường... Quảng Bình cũng chính là nơi chuẩn bị và tổ chức chuyến vận tải hàng đầu tiên chi viện chiến trường miền nam bằng đường biển của Tiểu đoàn vận tải thủy 603 - Tập đoàn đánh cá sông Gianh (đóng tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch).