Đại tá Cao Nguyên Quyền nguyên là chính trị viên, từng công tác tại Ban chỉ huy quân sự huyện Cẩm Thủy, thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa - Quân khu 4. Ông sinh ra, lớn lên và trọn đời gắn bó với làng Gầm. Ông kể: Trong kháng chiến chống Pháp, những dãy núi đá vững chãi ở vùng này với vô số hang đá ngầm sâu hun hút và rộng lớn ẩn mình trong lòng núi đã trở thành những căn cứ quân sự bí mật của bộ đội, là nơi cất giấu vũ khí, lưu giữ tài liệu, hội họp và huấn luyện như một hệ thống chiến lược. Đến kháng chiến chống Mỹ, vùng đất này còn trở thành một căn cứ quân sự thực sự, đặc biệt là nơi đặt các công binh xưởng quy mô lớn để sản xuất vũ khí phục vụ trực tiếp cho tiền tuyến.
Cùng với những xưởng sản xuất, một lực lượng lớn công nhân từ khắp các vùng quê đã về đây sinh sống, làm việc, mang theo cả giọng nói, thói quen, văn hóa và nếp sinh hoạt của từng miền đất khác nhau. Giọng Mường truyền thống không còn nguyên bản mà trở nên pha trộn, dịu đi, có những âm sắc mới. Không chỉ ở lời ăn tiếng nói, mà cả trong nếp sống, người Mường cũng sớm có những thay đổi. Họ không còn nuôi gia súc, gia cầm dưới gầm nhà sàn như phong tục xưa kia, bởi khi đó hàng nghìn công nhân đến ở trọ trong làng.
Đại tá Cao Nguyên Quyền xúc động nói, nếu không nhờ những công nhân từ khắp nơi về đây ở trọ trong làng, có lẽ ông đã không được tiếp xúc sớm đến thế với văn học nghệ thuật, với những tác phẩm kinh điển của nhân loại, đặc biệt là văn học Nga. Những người công nhân ấy còn mang theo cả những cuốn sách quý. Mỗi sáng họ vào hang núi làm việc, còn ông, cậu bé người Mường khi ấy lặng lẽ mượn lại sách, ngồi dưới gầm sàn đọc say mê từng trang. Không chỉ riêng ông, mà nhiều đứa trẻ khác trong làng cũng dần quen với những cái tên xa lạ như Puskin, Lermontov, Tolstoy, Gorki…
Thì ra, ngay từ thời chiến tranh, khi những đoàn công nhân từ khắp các vùng miền đổ về không chỉ mang theo kỹ năng lao động, sách vở và văn hóa, mà còn mang đến cả cách thức tổ chức đời sống mới, từ cách dựng nhà dưới mặt đất đến sinh hoạt khoa học, ngăn nắp. Người Mường nơi đây, với sự cởi mở và tư duy cầu tiến vốn có, đã không ngần ngại tiếp thu những điều hay, điều tiện ích. Họ quan sát, học hỏi và dần dần thay đổi. Từ đó, nếp nhà sàn dần được thay thế bằng những ngôi nhà xây khang trang trên mặt đất, phù hợp với điều kiện mới và mong muốn về một cuộc sống sạch sẽ, hiện đại hơn.
Đến hôm nay, dấu tích của thời ấy vẫn còn hiện hữu. Những hang quân sự vẫn nguyên vẹn trong vách đá, lặng im nhưng thấm đẫm ký ức. Có hang vẫn còn bệ máy, chân máy sót lại từ ngày công xưởng rút đi vào năm 1973. Đó không chỉ là di tích chiến tranh, mà là những trang sử đá sống động, nơi đá đã in dấu bàn chân người lính, người thợ, nơi ánh sáng của ý chí kiên cường từng rực lên giữa bóng tối của chiến tranh.
Làng Gầm đã in vào tâm trí tôi dáng vẻ hiền hòa mà phóng khoáng của một vùng quê trù mật, có núi, có sông, có đồng, có bãi, và hơn hết là dấu ấn của đời sống con người. Tất cả yên ổn và hài hòa như thể không gì ngoài kia có thể làm thay đổi được nếp sống ấy.
Lớp trẻ người Mường thời ấy đã có cơ hội tiếp cận với văn hóa và nghệ thuật khá sớm, không phải qua trường lớp, mà bằng một mạch nguồn rất đời thường. Cán bộ, bộ đội còn mang các ký hoạ của hoạ sĩ Huỳnh Phương Đông về triển lãm ở vùng này để làm công tác tuyên truyền.