Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, NSND Trịnh Thúy Mùi:

Nghệ thuật biểu diễn chưa có sự cạnh tranh công bằng

Những bất cập tồn tại trong chế độ, chính sách với nhân sự lao động thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn (NTBD) là vấn đề không còn mới nhưng vì chưa có những giải pháp triệt để nên đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống, tâm lý người làm nghề và sự phát triển dài hơi, phục vụ công chúng một cách tốt nhất. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện cùng NSND Trịnh Thúy Mùi Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam chung quanh câu chuyện này.
Nghệ thuật biểu diễn chưa có sự cạnh tranh công bằng

Chế độ có được như... xưa?

Thưa NSND Trịnh Thúy Mùi, ở cương vị vừa là nghệ sĩ, vừa làm công tác quản lý, bà đánh giá thế nào về tính thực tiễn của nghị định liên quan tới chế độ, chính sách với nhân sự lao động trong lĩnh vực NTBD hiện nay?

NTBD là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực, loại hình phong phú. Trong đó, có những lĩnh vực đã có luật như điện ảnh và cả các lĩnh vực chưa có luật như sân khấu... Khi chưa có luật, nghị định là cơ sở quan trọng góp phần định hướng, hỗ trợ đội ngũ làm nghề. Tuy nhiên, theo tiến trình thời gian và sự thay đổi không ngừng của đời sống văn hóa-xã hội, nhiều nội dung trong một số nghị định đã không còn phù hợp, bộc lộ nhiều bất cập.

Với riêng lĩnh vực sân khấu mà bà đã gắn bó nhiều năm thì bất cập là gì?

Thí dụ, vấn đề phân bổ ngân sách ở từng đơn vị, địa phương khi áp dụng nghị định chung cho toàn quốc đã nảy sinh rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Tác phẩm mang tính cá nhân còn đỡ, riêng sân khấu yêu cầu tính tập thể cao thì với mức kinh phí hạn hẹp, hầu hết các đơn vị không đủ để dàn dựng, đầu tư cho vở diễn... Như Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, suốt bao năm qua mới chỉ đủ kinh phí để tổ chức các trại sáng tác. Những năm gần đây, dù có chú trọng vào phát triển tác giả nhưng Hội vẫn gặp khó khăn vì không đủ kinh phí. Chúng tôi có kêu gọi tài trợ để tổ chức các chương trình tập huấn nghiệp vụ nhưng muốn mời được những người giỏi, vấn đề lại vẫn nằm ở... kinh phí!

Bên cạnh đó, về cơ chế chính sách, cũng đã lâu chưa có gì thay đổi. Đa phần diễn viên các nhà hát là hạng 3, phấn đấu mấy chục năm vẫn chỉ ở mức ấy, thế nên nhiều nghệ sĩ mới 35 tuổi đã kịch trần mức lương, khó phấn đấu. Giới làm nghề từng đưa ra những kiến nghị, đề xuất như việc phong tặng danh hiệu cho nghệ sĩ cần tác động được vào những quyền lợi khác như nâng hạng lương, luân chuyển... Nhưng rốt cuộc, không có gì thay đổi, hầu hết nghệ sĩ vẫn cùng hạng lương, hầu hết là hạng 3, số ít ỏi hạng 2 và hầu như không có hạng 1. Với bản thân tôi, thực trạng đó kéo dài gần 20 năm cho tới khi làm lãnh đạo mới được chuyển ngạch chuyên viên. Như vậy là rất thiệt thòi cho nghệ sĩ. Hi hữu, cũng có những đơn vị, địa phương nhận thấy bất cập nên điều chỉnh đôi chút nhưng không đáng kể và chỉ giải quyết vấn đề trước mắt.

Nhưng cũng có những ý kiến cho rằng, so với trước đây, đời sống văn nghệ sĩ nói chung đã được cải thiện đáng kể?

Nhìn chung, văn nghệ sĩ cần phải ổn định đời sống thì mới yên tâm cống hiến, sáng tạo với nghề được. Ngày xưa, nhu cầu đời sống đơn giản và bối cảnh chung của toàn xã hội còn nhiều khó khăn. Song, thời kỳ ấy văn nghệ sĩ so với bình diện chung vẫn được ưu tiên hơn, chế độ tem phiếu, mọi thứ đều nhỉnh hơn công nhân, viên chức bình thường. Bây giờ thì hầu hết không bằng công nhân viên. Với nhiều nghệ sĩ về hưu, mức lương 3-4 triệu đồng chỉ đủ trang trải cá nhân, khi ốm đau hay gặp biến động cuộc sống thì rơi vào khó khăn, bế tắc. Các Hội chuyên ngành như chúng tôi đều nắm bắt hoàn cảnh khá rõ, nhiều nghệ sĩ còn có đơn gửi Hội nhờ hỗ trợ nhưng rất tiếc việc giải quyết một cách thấu đáo, đầy đủ là rất khó.

Muốn sửa, trước tiên phải hiểu!

Nhiều hội nghị, hội thảo các cấp về nội dung sửa đổi Nghị định cho lĩnh vực NTBD đã được tổ chức. Liệu có thể lạc quan về tính hiệu quả không, thưa bà?

Tôi cho rằng khâu quản lý nhà nước của lĩnh vực NTBD còn yếu. Chưa có văn bản sửa chữa nghị định đã đành, nhưng sửa mà không hiểu thì cũng không mang lại hiệu quả. Các Hội chuyên ngành, các đơn vị, địa phương, nghệ sĩ... đều được quyền đóng góp ý kiến, nhưng quá trình soạn thảo cần có sự chọn lọc, và nếu quá trình này bất ổn thì Nghị định sẽ không đáp ứng thực tiễn. Tính đặc thù, sự sâu sát cần được áp dụng một cách cụ thể hơn. Thí dụ, trong lĩnh vực sân khấu, nhạc công có chức năng hỗ trợ rất tích cực cho nghệ sĩ nhưng khi vở diễn đoạt giải lại không hề có cơ chế ghi nhận. Rồi bộ phận âm thanh, ánh sáng bên múa thì có cơ chế đánh giá, ghi nhận trong khi sân khấu thì không.

Cảnh trong vở Blouse trắng, SK kịch Trịnh Kim Chi.

Cảnh trong vở Blouse trắng, SK kịch Trịnh Kim Chi.

Tôi không muốn nhìn nhận theo hướng nghệ sĩ khó khăn nên cần phải đầu tư vào, mà muốn nhìn thẳng vấn đề: Nhà nước đã và đang tìm mọi cách ưu tiên cho văn hóa nghệ thuật phát triển, nhưng cần có Luật để đi sâu vào từng ngõ ngách, tìm được sự cân bằng, công bằng trong mặt bằng chung giữa các đơn vị, cá nhân. Đó cũng là sự khích lệ, kích cầu cần thiết. Ngoài ra, báo chí truyền thông cũng là một kênh thông tin tham khảo quan trọng bởi đó là đối tượng nắm bắt rất kỹ đời sống, hoạt động nghề nghiệp của nghệ sĩ. Cần lắng nghe họ, ghi nhận kịp thời những thông tin đóng góp, phản biện.

Bà chia sẻ gì trước những ý kiến cho rằng xã hội hóa là giải pháp cần thiết?

Ở lĩnh vực điện ảnh, nhờ có Luật mà phát triển khá sôi nổi, xã hội hóa có được khuyến khích hay không vẫn sẽ “trăm hoa đua nở”. Chừng nào chưa có Luật, chính các nhà đầu tư cũng rất “rón rén”. Nên khuyến khích xã hội hóa và cũng nên có những bước hỗ trợ ban đầu. Chúng ta đã chứng kiến thực trạng “sớm nở tối tàn” xảy ra ở không ít đơn vị xã hội hóa bởi họ phải đơn độc “tự bơi”. Họ khó khăn từ việc tìm được một địa điểm làm nơi biểu diễn, luyện tập. Trong khi đó, có những đơn vị công lập sở hữu tới vài ba địa chỉ, nhà hát... vậy có cần cơ chế, định hướng để chia sẻ cho các đơn vị xã hội hóa không? Có những đơn vị công lập được đầu tư, dàn dựng vở diễn mà không bảo đảm được loạt đêm diễn phục vụ công chúng thì có nên duy trì không? Cần thiết phải có những giải pháp cân bằng đầu vào-đầu ra.

Dường như đang có sự chạy đua không công bằng. Sự không công bằng còn thể hiện ở bối cảnh chung của NTBD. Hoạt động này đang tập trung quá nhiều ở các thành phố lớn, vùng sâu vùng xa thiếu vắng. Đa số các tỉnh thành chỉ có một đoàn nghệ thuật thì làm sao phục vụ tốt cho công chúng? Ở biên giới, hải đảo xa xôi, có những lực lượng đặc biệt đang làm nhiệm vụ, vừa xa nhà, vừa gặp khó khăn ở nhiều khía cạnh, văn hóa văn nghệ có đến được không? Cần thiết phải có khảo sát, lựa chọn để giữ lại đơn vị công lập nào và quyết định xã hội hóa các đơn vị khác để NTBD đi vào đời sống một cách mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, vấn đề sáp nhập các đơn vị nghệ thuật cũng không kém phần nan giải và cũng đầy bất cập. Các loại hình khác nhau, sáp nhập vào liệu có tự tiêu hủy nhau, có trở nên nghiệp dư hóa? Rất khó để chỉ ra một mô hình sáp nhập mà phát triển tốt.

Thưa bà, thẳng thắn nhìn nhận thì nghệ sĩ lĩnh vực NTBD tồn tại hạn chế gì?

Chế độ, chính sách ra đời đều nhằm mục đích ghi nhận, khích lệ các đơn vị nghệ thuật và cá nhân yên tâm sáng tạo để cho ra đời những tác phẩm mang yếu tố mới, đối thoại được với cuộc sống đương thời. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có câu chuyện cơ chế mà không ít nghệ sĩ còn ngần ngại, hay lẩn mình vào những đề tài quen thuộc như dân gian, lịch sử mà né tránh mảng đương đại bởi gai góc, dễ đụng chạm. Hơn nữa, thể tài này đòi hỏi các tác giả phải đi thực tế, cập nhật thường xuyên, có tư duy tổng hợp phản biện. Nghệ sĩ có đam mê, có hoài bão nhưng thiếu tác phẩm đỉnh cao có thể đáp ứng được kỳ vọng của công chúng. Trước đây, nhiều nghệ sĩ phải lăn lóc vài năm mới ra một tác phẩm, giờ điều đó là rất khiên cưỡng.

Trân trọng cảm ơn NSND Trịnh Thúy Mùi về cuộc trò chuyện!

Có thể bạn quan tâm

TS Trần Đình Cường

“Phát triển xanh là xu thế không thể đảo ngược”

Là người gắn bó với các bước thăng trầm của kinh tế Việt Nam từ thời kỳ đầu đổi mới đến nay, với uy tín được các nhà đầu tư trong và ngoài nước ghi nhận, TS Trần Đình Cường - Chủ tịch Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam (EY), đã chia sẻ cùng Nhân Dân hằng tháng câu chuyện nền kinh tế xanh, bền vững mà Việt Nam đang hướng tới.
Thành tựu đối ngoại góp phần thúc đẩy hợp tác, thu hút nguồn lực phục vụ phát triển

Thành tựu đối ngoại góp phần thúc đẩy hợp tác, thu hút nguồn lực phục vụ phát triển

Năm 2023 để lại nhiều dấu ấn và thành tựu đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam. Hình ảnh một Việt Nam phát triển năng động, hấp dẫn đầu tư, là đối tác tin cậy nổi bật trên trường quốc tế, kiều bào tích cực đóng góp nguồn lực cho Tổ quốc. Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Lê Thị Thu Hằng trao đổi với phóng viên Nhân Dân hằng tháng chung quanh vấn đề này.
Các sản phẩm của Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ dược liệu Yên Sơn (thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) tăng mạnh về số lượng bán ra thị trường nhờ thực hiện truy xuất nguồn gốc. Ảnh | HÀ AN

Minh bạch nguồn gốc tăng sức cạnh tranh cho nông sản Việt

Chất lượng và nguồn gốc của nông sản lâu nay luôn là vấn đề nóng trong tiêu dùng và giao thương, đặc biệt với xuất khẩu. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, xuất khẩu nông sản vẫn luôn là một “điểm sáng” và góp phần duy trì nguồn thu lớn cho nền kinh tế, với những thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng và những hiệp định FTA mới được ký kết. Theo đó, việc triển khai truy xuất nguồn gốc nông sản ngày càng trở nên bức thiết, bởi đó là một trong những công cụ hữu hiệu giúp minh bạch nguồn gốc, bảo đảm chất lượng sản phẩm do có thể truy vết từng bước trong chuỗi hình thành sản phẩm, từ đó xúc tiến việc tiêu thụ hàng hóa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong nước và thế giới.

Quyết định số 100/QĐ-TTg ngày 19/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc hàng hóa là bước đột phá quan trọng trong việc tạo tiền đề cho một hệ sinh thái về truy xuất nguồn gốc mà điểm nhấn quan trọng đó chính là xây dựng Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa Quốc gia. Với việc triển khai số hóa ngành nông nghiệp ngày càng phổ biến, coi đây là một trong những mục tiêu trọng tâm của ngành, việc ứng dụng công nghệ để truy xuất nguồn gốc nông sản đang được triển khai tích cực. Tuy nhiên quá trình triển khai còn mang nặng tính hình thức, thiếu hiệu quả do nhiều doanh nghiệp, người dân chưa hiểu đúng và đủ về việc này, thiếu năng lực thực hiện, mặt khác hệ thống hạ tầng số còn thiếu và yếu, chưa kết nối, chưa đồng bộ...

Làm thế nào để việc triển khai truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp ngày càng hiệu quả, thực chất và phát huy được đầy đủ tác dụng của nó như là một công cụ hữu hiệu nhằm minh bạch nguồn gốc, tạo lòng tin cho người tiêu dùng, thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa trên thị trường là vấn đề trong tiêu điểm tháng 10 của Nhân Dân hằng tháng.

Chế biến thủy sản xuất khẩu ở Công ty CP Thủy sản Cafatex Hậu Giang. Ảnh | TRẦN QUỐC

Còn nhiều tồn tại, thách thức

Việc xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ cho truy xuất nguồn gốc; đẩy mạnh chuyển đổi số trong truy xuất nguồn gốc đã thể hiện nỗ lực của Việt Nam về quản lý an toàn thực phẩm, hướng đến nền nông nghiệp minh bạch, trách nhiệm, bền vững. Tuy nhiên, nền nông nghiệp nước ta đang đối mặt không ít thách thức, đòi hỏi phải sớm khắc phục tồn tại, hạn chế để truy xuất nguồn gốc sản phẩm hiệu quả và toàn diện, nhất là khi các thị trường xuất khẩu nông sản chính như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU)... đang ngày càng đẩy mạnh áp dụng truy xuất nguồn gốc sản phẩm trên tất cả các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản.
Vùng trồng chè được cấp nhãn hiệu chứng nhận “Chè Phổng Lái Thuận Châu”.

Gây dựng lòng tin để phát triển thương hiệu

Được đánh giá là “hiện tượng nông nghiệp” và trở thành vùng trồng cây ăn quả lớn nhất miền bắc với những dấu ấn nổi bật, tỉnh Sơn La đã tạo ra các sản phẩm nông sản chủ lực, đặc trưng có mặt tại nhiều nước trên thế giới. Kết quả khả quan đó do làm tốt việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, góp phần xây dựng, quản lý và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm nông sản.
Nhiều mặt hàng nông sản tại siêu thị Co.opmart được dán tem truy xuất nguồn gốc. Ảnh | AN AN

Nhà nước hỗ trợ, người dân chủ động

Những lợi ích thiết thực từ việc minh bạch nguồn gốc nông sản là không thể phủ nhận, vậy làm thế nào để tiếp tục thúc đẩy triển khai việc truy xuất nguồn gốc một cách hiệu quả, thực chất. Nhà quản lý, các chuyên gia đầu ngành, hộ sản xuất bày tỏ ý kiến với Nhân Dân hằng tháng.