Trẻ 5 đến dưới 12 tuổi tiêm vaccine Covid-19 có thể gặp những phản ứng gì?

Hầu hết trẻ 5 đến dưới 12 tuổi sau khi tiêm vaccine phòng Covid-19 đều chỉ gặp các phản ứng thông thường, chỉ có tỷ lệ rất nhỏ có phản ứng bất thường.

(Ảnh minh họa: MINH DUY)
(Ảnh minh họa: MINH DUY)

Câu hỏi: Tôi có con trai 8 tuổi và tới đây sẽ tiêm vaccine. Cháu từng nhiễm Covid-19 cách đây 4 tuần. Gia đình tôi có nên cho cháu tiêm hay không và liệu trẻ sẽ có phản ứng gì khi tiêm hay không?

Trả lời: 

PGS, TS Dương Thị Hồng, Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho biết, thông qua báo cáo trên thế giới, hầu hết trẻ 5 đến dưới 12 tuổi sau khi tiêm vaccine phòng Covid-19 đều chỉ gặp các phản ứng thông thường, chỉ có tỷ lệ rất nhỏ có phản ứng bất thường.

Đối với vaccine Pfizer, các phản ứng rất thường gặp khi tiêm vaccine phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi là: Đau đầu, tiêu chảy, đau khớp, đau cơ, đau tại vị trí tiêm, kiệt sức, ớn lạnh, sốt (tần suất cao hơn đối với liều thứ 2), sưng tại chỗ tiêm (>80%), kiệt sức (>50%), đau đầu (>30%), tấy đỏ và sưng tại vị trí tiêm (>20%), đau cơ và ớn lạnh (>10%). 

Các phản ứng rất thường gặp nhất ở nhóm tuổi từ 5 đến dưới 12 tuổi là: buồn nôn, tấy đỏ tại vị trí tiêm;

Phản ứng ít gặp là nổi hạch, các phản ứng quá mẫn (phát ban, ngứa, mề đay, phù mạch), giảm cảm giác thèm ăn, mất ngủ, ngủ li bì, tăng tiết mồ hôi, đổ mồ hôi đêm, đau chi, suy nhược, khó chịu, ngứa tại vị trí tiêm;

Phản ứng rất hiếm gặp là viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim (ít hơn 1/10.000). Tuy nhiên, hiện chưa ghi nhận phản ứng này đối với trẻ từ 12-17 tuổi đã tiêm vaccine phòng Covid-19 trong hệ thống.

Đối với vaccine Moderna, các phản ứng rất thường gặp là: Sưng hạch nách ở cùng bên với vị trí tiêm, một số trường hợp sưng hạch bạch huyết khác (thí dụ: ở cổ, ở trên xương đòn), đau đầu, buồn nôn/nôn, đau cơ, đau khớp,đau tại vị trí tiêm, mệt mỏi, ớn lạnh, sốt, sưng tại vị trí tiêm, ban đỏ tại vị trí tiêm.

Các phản ứng bất lợi được báo cáo nhiều nhất ở trẻ em từ 6 đến dưới 12 tuổi sau liệu trình tiêm cơ bản là đau tại vị trí tiêm (98,4%), mệt mỏi (73,1%), đau đầu (62,1%), đau cơ (35,3%), ớn lạnh (34,6%), buồn nôn/nôn mửa (29,3%), sưng/đau ở nách (27.0%), sốt (25,7%), ban đỏ tại vị trí tiêm (24,0%), sưng tại vị trí tiêm và đau khớp;

Phản ứng thường gặp là: Tiêu chảy, phát ban, nổi mề đay tại vị trí tiêm, phát ban tại vị trí tiêm, phản ứng muộn tại vị trí tiêm;

Phản ứng ít gặp là: Chóng mặt, ngứa tại vị trí tiêm;

Phản ứng hiếm gặp là: Giảm cảm giác, sưng mặt ở người có tiền sử tiêm chất làm đầy da;

Phản ứng rất hiếm gặp là: Viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim.

Việc theo dõi sau tiêm vaccine cần được đề cao và thực hiện sát sao hơn với trẻ 5 đến dưới 12 tuổi. Cha mẹ, người thân phải túc trực bên cạnh trẻ trong ít nhất 3 ngày sau tiêm. Trong thời gian này, chúng ta cần theo sát trẻ để nhận ra các phản ứng, đặc biệt liên quan tim mạch, phản ứng phản vệ hay tình trạng tương tự viêm đa cơ quan như phát ban, tổn thương niêm mạc. Đây là các dấu hiệu sớm để cảnh giác khi trẻ tổn thương những cơ quan khác.

PGS, TS Dương Trọng Lân, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết, đối với trẻ đã nhiễm vaccine, thống nhất là 3 tháng sau khi khỏi, không gặp những vấn đề phản ứng nặng sau nhiễm thì tiêm vaccine. 

Theo ông Lân, trẻ em mắc Covid-19 nhẹ cũng cần tiêm vaccine vì nhẹ nên miễn dịch của trẻ chưa đầy đủ. Ngay cả với người lớn miễn dịch tự nhiên không chuẩn hóa bằng miễn dịch của vaccine. Khi có miễn dịch tự nhiên, thêm miễn dịch của vaccine sẽ có kháng thể bảo vệ cho trẻ.

Tập trung khống chế dịch Covid-19 lây lan

Có thể bạn quan tâm

Viêm kết mạc là một trong những biểu hiện của người bệnh dương tính với Covid-19.

Viêm kết mạc hậu Covid-19 ở trẻ có nguy hiểm không?

Trẻ bị viêm kết mạc hậu Covid-19 thường có biểu hiện đỏ mắt ở các phần màu trắng của mắt, không gây khó chịu hoặc mắt có thể bị đau, cảm giác ngứa hoặc cộm, chảy nhiều nước mắt và rỉ mắt kèm nhức mắt.

Bác sĩ phẫu thuật mắt cho bệnh nhân. (Ảnh minh họa)

Hội chứng thị giác màn hình do ảnh hưởng của Covid-19

Một số biểu hiện đầu tiên của hội chứng thị giác màn hình là nhìn mờ, khô mắt, nhức đầu, nhìn đôi, đau vai, cổ gáy. Hội chứng thị giác màn hình nếu để lâu không khắc phục, mắt sẽ có nguy cơ biến chuyển thành các bệnh lý nguy hiểm.

(Ảnh minh họa)

Tránh tình trạng lạm dụng chỉ định không cần thiết điều trị hậu Covid-19

Bộ Y tế yêu cầu các cơ sở y tế khám, chữa bệnh cho người có dấu hiệu, triệu chứng hậu Covid-19 nói riêng và khám bệnh, chữa bệnh nói chung theo phạm vi hoạt động chuyên môn của cơ sở, theo các lĩnh vực chuyên khoa khi người dân có các dấu hiệu, triệu chứng thuộc các chuyên khoa, tránh tình trạng lạm dụng chỉ định hoặc chỉ định không phù hợp, không cần thiết.

(Ảnh minh họa)

Có nên dùng thuốc Molnupiravir để phòng tránh hậu Covid-19?

Chưa có nghiên cứu nào chứng minh uống thuốc Molnupiravir có thể phòng được hậu Covid-19. Người dân không nên lo lắng, tích trữ và tự ý sử dụng thuốc, vì việc sử dụng thuốc không đúng chỉ định sẽ ảnh hưởng tới việc điều trị bệnh đồng thời tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe do các phản ứng có hại của thuốc.

(Ảnh minh họa)

Thai phụ bị sốt khi mắc Covid-19 cần làm gì?

Khi thai phụ mắc Covid-19 bị sốt, người bệnh cần uống nhiều nước, lau người bằng nước ấm. Bệnh nhân có thể sử dụng các loại thuốc hạ sốt an toàn trong thai kỳ: Paracetamol 500 mg hoặc Ibuprofen nếu không có tiền sử loét dạ dày, xuất huyết.

Nhiều nguyên liệu được người dân chọn để đun nước xông hơi. (Ảnh minh họa)

Lạm dụng xông hơi khi nhiễm Covid-19 có nguy hiểm không?

Để hỗ trợ điều trị triệu chứng cảm cúm, mệt mỏi khi nhiễm Covid-19, người bệnh chỉ nên xông hơi 1 lần/ngày và bảo đảm nhiệt độ để không bị bỏng. Không nên xông 4-5 lần/ngày... Việc lạm dụng xông quá nhiều lần trong ngày khiến cơ thể bị mất nước, mất điện giải và có thể tổn thương niêm mạc đường hô hấp.

(Ảnh minh họa)

Dùng thuốc hạ sốt đúng cách khi trẻ nhiễm Covid-19

Thuốc hạ sốt khi nhiệt độ ≥ 38,50 C: Paracetamol liều 10-15 mg/kg/lần (uống hoặc đặt hậu môn, cách tối thiểu 4-6 giờ nếu cần nhắc lại (hoặc sử dụng liều theo tuổi). Có thể lặp lại mỗi 4 giờ đến 6 giờ nếu vẫn còn sốt. Lưu ý tổng liều thuốc không quá 60 mg/kg/ngày.

Trẻ điều trị hội chứng MIC-S tại Bệnh viện Nhi Trung ương.

Câu hỏi thường gặp về hội chứng hậu Covid-19 ở trẻ em

Hội chứng hậu Covid-19 ở trẻ (MIS-C) thường xảy ra sau mắc Covid-19 khoảng 2-6 tuần với các biểu hiện thường gặp như: sốt cao liên tục, rối loạn tiêu hóa, phát ban ngoài da, môi lưỡi đỏ. Biểu hiện MIS-C khá giống với một số tình trạng bệnh lý khác như sốc nhiễm độc hay bệnh Kawasaki. Đa phần bệnh nhân hồi phục hoàn toàn sau điều trị, tỷ lệ tử vong là rất thấp.

(Ảnh minh họa)

Trường hợp nào nên đi khám hậu Covid-19?

Theo khuyến cáo của chuyên gia, không phải ai mắc Covid-19 cũng cần đi khám hậu Covid-19. Với nhóm F0 nằm viện, có viêm phổi, điều trị hồi sức tích cực (ICU), sau khi ra viện, bác sĩ sẽ hẹn tái khám định kỳ 4-8 tuần. Đối với nhóm F0 nhẹ, không phải nhập viện, chỉ nên đi tái khám khi có triệu chứng hậu Covid-19.

Bác sĩ tư vấn cho bệnh nhân béo phì. (Ảnh: M.T)

Chăm sóc người béo phì nhiễm Covid-19 tại nhà

Người bệnh Covid-19 bị béo phì có nguy cơ tử vong cao hơn những người không bị béo phì. Đặc biệt, sự hiện diện của bệnh béo phì khiến cho nguy cơ mắc bệnh Covid-19 nặng tăng lên gấp ba lần, và thời gian nằm viện cũng bị kéo dài hơn.

Ảnh minh họa. (THÀNH ĐẠT)

F0 cần chuẩn bị thuốc và thiết bị gì để cách ly, điều trị tại nhà?

Người dân khi trở thành F1 hoặc F0 cần dự phòng một số thuốc và trang bị vật tư để bảo đảm cách ly và tự điều trị, đó là: các thuốc hạ sốt: Efferalgan, Panadol…; nhóm các thuốc chữa ho; nhóm các thuốc tiêu chảy; nước súc miệng; cồn sát trùng; các thuốc bệnh nền nếu F0 có bệnh nền (nên chuẩn bị đủ cho 4 tuần); các loại thuốc xịt mũi; vitamin C, kẽm, các loại thảo dược trị cảm, trị ho; nước uống thông thường, nước bù điện giải.

Nhân viên y tế khám sàng lọc trước khi tiêm chủng cho người dân tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Dinh dưỡng tốt nhất cho F0 điều trị tại nhà

F0 điều trị tại nhà cần lưu ý bảo đảm cung cấp chế độ dinh dưỡng đầy đủ và cân đối về cả năng lượng và các vi chất dinh theo nhu cầu của từng nhóm tuổi, tình trạng bệnh và khả năng dung nạp nhằm phòng ngừa teo cơ, suy dinh dưỡng.