Bạn sẽ nhìn thấy tôi, nếu đọc tôi

“Chị Tư” vẫn nhỏ nhẹ và dịu dàng, như cách mà chị đến với văn chương. Dù rất nhiều lần trò chuyện với chị, bằng cách này hay cách khác, trêu đùa thậm chí là... nói điêu cho chị, vậy nhưng, chưa bao giờ thấy Nguyễn Ngọc Tư giận. Đáp lại tất cả, chỉ là một nụ cười hiền khô, chân chất, và lâu mới lại có một lời đáp trả đầy hóm hỉnh.

Bạn sẽ nhìn thấy tôi, nếu đọc tôi

Thật ra, nói Nguyễn Ngọc Tư hiền khô, nhưng kỳ thực, dạo này thấy chị... lém lỉnh và cũng... ghê gớm hơn nhiều so với ngày tôi gặp chị lần đầu tiên, khi chị xuất hiện trên văn đàn gần hai chục năm trước, như một ánh sáng lạ, rọi những tia sáng từ một chân trời khác. Ngọc Tư bảo, thì con người ta phải tiến hóa mà, phải thay đổi chứ, không lẽ mình cứ ngốc mãi vậy sao.

Có thể nói, cho đến nay Ngọc Tư vẫn là một cái tên đầy ẩn số, gợi cho người ta cảm giác về một người phụ nữ đầy nội lực. Chị như một khối, tảng nhiều lớp lang, nhiều tầng bậc, có bóc tách ra thì cũng khó cảm nhận hết được sự bí ẩn của con người ấy, câu chữ ấy, suy nghĩ ấy, giọng văn ấy. Những gì thuộc về Ngọc Tư, đều khó có thể đoán định được.

Tôi hỏi chị có thấy hạnh phúc không, có bất ngờ không, khi mà “đứa con” Cánh đồng bất tận mang lại cho chị lần này đến lượt khác các giải thưởng văn chương cả trong nước lẫn quốc tế? Ngọc Tư cười nhẹ, ngập ngừng một lúc: “Nói tôi bất ngờ quá thì không đúng, nhưng mỗi giải thưởng tới với tôi đều là một sự bất ngờ. Hai tháng trước, khi nhận tin báo, tôi nghĩ: Không phải là quá nhiều cho một cuốn sách rồi sao?... Niềm vui cũng hao hụt ít nhiều khi tôi nghĩ ôi đó là cuốn sách đã cũ rồi. Bởi vì tôi không dự thi, không tham gia vào cuộc đua tranh nào, nghĩa là mọi thứ đến mà không phải chờ đợi, toan tính trước. Vì vậy, tôi coi giải thưởng mới nhận được là một món quà. Giá trị của nhà văn không phải do anh chị ta nhận giải thưởng nào, cả thảy bao nhiêu. Đó chỉ là một cách nhìn nhận sự nghiệp của người viết”.

Ngọc Tư chia sẻ những điều căn cốt đưa chị đến với văn chương, với con đường mà có khi là duy nhất trong đời sống xa xôi tại mảnh đất Cà Mau với một cô bé Ngọc Tư thuở ấy, chỉ đơn thuần là một cô gái nông dân, bỏ dở học hành, ở nhà nấu cơm nuôi ông ngoại, chăm sóc vườn rau, chiều chiều cắt rau cho má đi bán chợ đêm. Chị chia sẻ: “Lúc tôi viết, tôi cố định lại hình dáng và tiếng nói của mình, lấy lại những màu sắc vốn có. Duy nhất, lúc đó, chỉ còn lời thì thầm... Hãy kể câu chuyện này. Hãy kể câu chuyện này. Bám riết, dẳng dai, nhưng lời thì thầm ấy đủ vang động để lay tôi dậy lúc nửa đêm, nằm với tôi cho tới khi trời sáng. Đôi khi, vì mải lắng nghe sự thôi thúc mãnh liệt đó, tôi đã văng ra khỏi cuộc trò chuyện với con mình, và tụi nhỏ đã quen với việc bà mẹ bỗng dưng xao lãng, không nghe thấy lời của chúng. Đi chợ về, tôi thường lạc đường, cho tới khi nhận ra đang ngược hướng nhà mình. Và tôi ngờ rằng những món ăn tôi nấu lên trong căn bếp mù khói đã không ngon bởi vì tôi chẳng trọn lòng để ý tiếng cơm sôi, tiếng con cá nứt mình ra trong nồi, mà mãi lắng tai nghe lời thì thầm ấy...”.

Ngọc Tư bảo, mỗi lần viết xong một cái truyện ngắn, một cái tản văn... đó cũng là khi chị viết xong câu chuyện của mình, chúng có thể vang động, gây choáng váng một vài giây phút nào đó, và làm chị quên mất những cái bóng vĩ đại trên đầu mình. Chị bảo: “Tôi tin người ta luôn có những câu chuyện giống nhau, cùng sở hữu một vốn từ ngữ gần như nhau, nhưng mỗi người sẽ có một cách kể của riêng mình, từ cách chạm vào đời sống, cách người ta đặt tấm gương đón nhận những hình ảnh phản chiếu của đời sống ấy, tái tạo bằng tài năng thiên bẩm, sự trắc ẩn và tinh tế. Hãy kể câu chuyện này ra, bởi bạn là nhà văn, đó là việc bạn phải làm, duy nhất. Và đó là thứ duy nhất làm nên một thế đứng kiêu hãnh, cho người viết”.

Cuộc sống ồn ã, xô bồ và đầy biến động dường như chẳng mảy may ảnh hưởng gì đến Nguyễn Ngọc Tư. Trong thế giới câu chữ, cũng như con người đời thường của chị, cứ rủ rỉ với một lối văn phong dung dị, ngôn ngữ truyện như được bê vào từ đời thường, như thể mình là người được chứng kiến đủ điều, từ đầu đến cuối và kể lại cho mọi người cùng nghe. Không có một lời phán xét nào mà như cứa vào tâm thức những nỗi niềm trắc ẩn. Văn của chị, lách sâu vào tầng vỉa là sự thấm thía, làm nên một đời sống khác bất tận, lạ kỳ như chưa được khám phá, như bị lãng quên hay bỏ rơi. Mảnh đất ấy, nếu tách chị ra khỏi nó, chị sẽ không thể sống nổi. Mảnh đất ấy đã cho chị nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, nguồn cảm hứng từ con người, từ thiên nhiên, từ những phận người dân nghèo, từ cả một vùng nước lớn, nước rộng mênh mông. Dường như, chỉ có người biết lắng nghe âm vang từ sâu thẳm bên trong như Nguyễn Ngọc Tư mới có thể thấu hiểu được.

Ngọc Tư bảo: “Mỗi khi thấy tẻ nhạt đời sống này, tôi sẽ lặn vào những đời sống khác, trên trang viết. Tôi là một người trong tưởng tượng của mình, giả lập những tình huống và nỗi đau, để mà lăn lóc trong nó. Chẳng hạn tưởng tượng về miền Tây sẽ ra sao nếu trở thành vùng đất bị bỏ rơi, bị quên lãng. Không phải vì nó quá xa, mà qua rồi cái thời người ta sống chỉ cốt sao cho no bụng, người ta quý trọng hạt gạo, nên nhìn vựa lúa miền Tây với chút tình. Họ làm đường, xây cầu. Giờ thì họ ăn bánh mỳ cũng được. Nên cả một vùng đất bỗng vô hình, ngay khi nước biển chưa nhấn chìm nó...

Lâu rồi tôi học bày tỏ mình qua viết, kín đáo hay lộ liễu cũng tùy vào thể loại. Nhưng tôi vẫn đang ở đó, bạn sẽ nhìn thấy, nếu đọc tôi...”.

Có thể bạn quan tâm

Tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Hội thi sẽ góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá cồng chiêng; tăng thêm sự đoàn kết, hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân các dân tộc trên địa bàn thành phố nói riêng và tỉnh Kon Tum nói chung.

NSND Lê Ngọc vào vai Kim Tử - vai diễn được trao giải Nghệ sĩ trình diễn xuất sắc ở Liên hoan Sân khấu Trung Quốc - ASEAN 2016.

Tìm khán giả cho sân khấu

Có nhiều điều “lạ” khi nhắc đến sân khấu Lệ Ngọc, bởi đây là đơn vị sân khấu xã hội hóa gần như tiên phong ở Hà Nội, đang lập kỷ lục về việc lưu diễn ở nước ngoài nhiều nhất trong một khoảng thời gian ngắn và đang quyết tâm cho mục tiêu sống còn là tìm lại khán giả cho sân khấu.

Sự hình thành “chất Tràng An” không phải ở thời gian, mà ở nhận thức và thẩm thấu giá trị. Ảnh: LÊ BÍCH

Mạch ngầm văn hóa Tràng An

1. Phố Đinh Liệt có một người họa sĩ, gia đình từng nhiều đời gắn bó với phố cổ Hà Nội. Ở một góc sân thượng của ngôi biệt thự cũ kỹ, người họa sĩ vẽ hai bức tranh. Một bức, là gam màu trong trẻo của buổi sớm mai, thấp thoáng bóng cầu Long Biên phía xa. Một bức, có nền vàng đỏ của ráng chiều. Những mái ngói lô xô là cảm hứng chủ đạo của hai bức tranh.

Điệu múa Ngày mùa của người Dao Tiền xã Yên Nguyên (huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang).

Chơi xuân ở Bản Pình

Hoa đào, hoa mơ đang khoe sắc trên những sườn núi thôn Bản Pình, xã Trung Minh (Yên Sơn, Tuyên Quang), báo hiệu một mùa xuân đang về bản vùng sâu, vùng xa. Nơi đây, các hộ gia đình đều là đồng bào dân tộc Dao Tiền. Họ có nhiều phong tục độc đáo, trong đó phong tục đón Tết mang nhiều nét đặc trưng, thể hiện tính kết nối cộng đồng rất cao.

Mỗi khi xuân về

Mỗi khi xuân về

Hà Nội, tiết đông giá đến rất nhanh, sau những ngày mùa thu lộng lẫy vàng óng kéo dài. Rồi chẳng mấy chốc tháng Chạp sẽ gõ cửa. Chẳng mấy chốc trên khắp phố phường sẽ ngập tràn không khí Tết.

Tác phẩm 12 con giáp của danh họa Nguyễn Tư Nghiêm.

Nhớ Tết quê, gọi tranh Tết Đông Hồ

Những biết bao giờ thì mới tới ngày xưa, thuở tranh Tết Đông Hồ tưng bừng nguyên sắc gọi xuân ở muôn nẻo chợ quê để tranh Lợn, tranh Gà, tranh Phú quý, Vinh hoa ùa về mọi vách nứa, nhà tranh mà “om sòm” khó dứt từ Một, Chạp cho đến hết Giêng, Hai của Tết Việt?