Lũ vượt chuẩn 500 năm và bài toán trách nhiệm vận hành hồ chứa
Cần khẳng định, đợt mưa lũ cực đoan vừa qua tại Tây Nguyên và Nam Trung Bộ là hết sức bất thường, với tổng lượng mưa lớn nhất trong vòng 50 năm qua ở khu vực này. Mưa lũ diễn ra với cường độ kéo dài, liên tiếp tạo “lũ kép”, vượt xa tần suất thiết kế của nhiều công trình. Thực tế đó cũng đã làm bộc lộ khoảng trống trong cơ chế vận hành, nhất là thiếu bộ phận tư vấn chuyên môn và công cụ cho người ra lệnh xả hồ. Giáo sư Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam đã có những phân tích và kiến nghị một số giải pháp trong vận hành hồ chứa.
Phóng viên: Ông lý giải như thế nào về nguyên nhân đợt mưa lũ vừa qua trở nên cực đoan, gây ra hiện tượng “lũ kép”, vượt tần suất thiết kế của các hồ chứa và dẫn tới những bất cập trong vận hành, đặc biệt khi địa phương thiếu đội ngũ tư vấn chuyên môn để khuyến nghị xả hồ sớm?
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng: Trước hết, phải nói rằng đợt mưa lũ vừa rồi là hiện tượng cực đoan. Các số liệu thống kê đều cho thấy đây là loại mưa hàng mấy chục năm mới xảy ra một lần. Nguyên nhân đầu tiên là mưa lũ diễn ra với cường độ rất lớn. Thứ hai, thời gian mưa kéo dài liên tục hai đến ba ngày.
Trong ngành thủy văn của chúng tôi, mưa lũ dài ngày luôn là một thách thức rất lớn. Khi mưa kéo dài như vậy, các hồ chứa và các vùng trũng đều đã đầy nước, rừng cũng không còn khả năng hấp thụ. Mưa bao nhiêu là nước chảy xuống bấy nhiêu. Khả năng điều tiết, hấp thụ nước của cả lưu vực giảm mạnh, tạo ra những đỉnh lũ cao. Không chỉ vậy, mưa còn diễn ra theo kiểu: một đợt chưa kết thúc đã xuất hiện đợt khác gọi là “lũ kép”.
Hiện nay, trong cách tiếp cận thủy văn, quy trình vận hành của các hồ chứa lớn ở nước ta chủ yếu dựa trên mô hình “lũ đơn”. Nhưng thực tế gần đây lại xuất hiện “lũ kép”. Nhiều trận mưa lũ vượt cả tần suất kiểm tra 500 năm. Điều này đặt ra câu hỏi với ngành khoa học chúng tôi: tại sao lại không “bắt” được các trận lũ như vậy? Chúng ta thiết kế hồ theo tiêu chuẩn 500 năm, nhưng thực tế lũ lại lên mức tương đương 1.000 năm hay 1.050 năm. Tức là các tiêu chuẩn tính toán hiện nay chưa theo kịp sự thay đổi do biến đổi khí hậu.
Về phía thiên nhiên, rõ ràng là có yếu tố bất khả kháng. Nhưng câu chuyện thủy lợi, thủy điện hiện nay lại đang rơi vào tình trạng… ai cũng đúng. Đây mới là điều nguy hiểm nhất. Chủ đập thủy điện nói họ vận hành đúng quy trình. Ban chỉ huy phòng chống thiên tai cũng nói họ hạ lệnh xả lũ đúng. Nhưng quy trình là do con người xây dựng, và vấn đề nằm ở chỗ: không ai tư vấn cho Chủ tịch tỉnh phải xả sớm. Chủ tịch tỉnh cũng muốn xả sớm để an toàn, nhưng khi trời còn quang mây tạnh, ai sẽ dám khẳng định rằng: “Anh phải ra lệnh xả bớt nước đi, ba ngày nữa sẽ có lũ đặc biệt lớn vượt quá khả năng kiểm soát của hồ”? Với một hồ chứa thì không khó, nhưng trong lưu vực có nhiều hồ chứa thì bài toán ra quyết định không đơn giản.
Như vậy có thể thấy rằng câu chuyện ở đây là hiện nay ở cấp địa phương không có đội ngũ tư vấn chuyên môn đủ sức để tư vấn trong lĩnh vực này. Hiện nay, các địa phương chủ yếu dựa vào cán bộ Ban chỉ huy phòng chống thiên tai của Sở Nông nghiệp hoặc Sở Công thương, nhưng những đơn vị này không có các chuyên gia thuỷ văn, thủy lực và công cụ/mô hình số để tư vấn ra quyết định xả lũ theo diễn biến thực tế. Vậy thì làm thế nào? Đài khí tượng thủy văn quốc gia có dự báo mưa lớn trong lưu vực tron vài ngày tới, nhưng khi nào lũ về đến hồ, với lưu lượng bao nhiêu, hồ nào xả trước hồ nào xả sau, xả ở mức bao nhiêu để mực nước hạ lưu không lên quá nhanh để người dân có thời gian di tản,… Đây là bài toán rất phức tạp, đòi hỏi phải có bộ công cụ được xây dựng sẵn, khi có việc chỉ bấm máy chạy, nếu không có bộ phận tư vấn chuyên nghiệp thì rất khó ra quyết định kịp thời.
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam
Phóng viên: Ông đề xuất mô hình tổ chức và cơ chế nào để khắc phục tình trạng thiếu bộ phận tư vấn chuyên môn trong vận hành hồ chứa, đồng thời giải quyết mâu thuẫn lợi ích giữa yêu cầu xả sớm phòng lũ và mục tiêu phát điện của các chủ đập?
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng: Tôi kiến nghị trước hết về mô hình tổ chức. Ở Nhật Bản hay Trung Quốc, các cơ quan địa phương đều có cục thủy văn hoặc văn phòng thủy văn, chịu trách nhiệm theo dõi, trực 24/24 trong mùa lũ. Nếu chúng ta chưa thể thành lập một cơ quan bài bản như vậy, thì phải tính đến phương án thuê dịch vụ, xã hội hóa công tác dự báo. Ở nước ta có rất nhiều chuyên gia, nhiều công ty có thể làm việc này và đã thử nghiệm trên thực tế thành công vài năm gần đây.
Trách nhiệm khi xảy ra hiện tượng lũ chồng lũ thì cũng không thể đổ lỗi cho một bên. Chủ tịch tỉnh cũng đang ra lệnh xả lũ theo quy trình vận hành hồ/liên hồ theo quy trình, chủ đập thủy điện cũng chấp hành mệnh lệnh và hướng dẫn đã ban ra. Thực tế thì lũ lên quá nhanh, người dân chạy không kịp. Còn hồ chứa cũng đứng trước thử thách ngàn cân, lũ có nguy cơ vượt đỉnh đập. Chưa có cơ chế, chính sách thuê dịch vụ dự báo và ra quyết định vận hành. Không làm được thì đi thuê-tư duy ấy đến nay vẫn chưa được áp dụng.
Điểm thứ hai liên quan đến thủy điện và hiệu quả kinh tế. Về an ninh năng lượng, nếu yêu cầu chủ đập xả nước khi phía trước dự báo vài ngày nữa không mưa thì họ sẽ thiếu nước để phát điện. Câu chuyện này từng xảy ra ở đập Hòa Bình năm 2022: EVN bị kỷ luật vì không đủ điện cho miền bắc do phải xả đáy quá nhiều. Khi hồ không đầy khi thời gian sau đó không còn mưa, hồ không đầy nước, công suất phát điện giảm, thậm chí không phát được điện, không có doanh thu. Chưa kể, họ còn bị phạt vì không bảo đảm công suất như đã đăng ký. Đây là mâu thuẫn lợi ích rất rõ ràng.
Do đó, tôi đề xuất một giải pháp: nếu Chủ tịch tỉnh ra lệnh xả sớm để phòng lũ, nhưng việc đó khiến hồ không tích đủ nước, thay vì đổ trách nhiệm cho nhau, thì hãy dùng Quỹ phòng chống thiên tai để bù đắp phần thiệt hại cho chủ đập. Khái niệm “mua dung tích phòng lũ” chính là ở chỗ đó.
Thực ra, câu chuyện này đã được bàn luận hơn mười năm nay. Hôm qua, trên mạng xã hội còn chia sẻ lại phóng sự VTV làm cách đây hơn chục năm, và tình hình đến nay vẫn gần như không thay đổi. Ý tưởng “mua dung tích phòng lũ” đã được đưa ra từ thời Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, lúc bàn về quy trình vận hành liên hồ chứa. Nhưng việc ban hành chính sách vẫn không thống nhất được. Khi đó chúng ta chưa trải nghiệm thiệt hại lớn như hiện nay.
Đến giờ, yêu cầu này đã trở nên cấp bách. Sau sự kiện ở hồ Thác Bà qua cơn bão Yagi, Cục Tài nguyên nước đã chỉnh sửa quy trình vận hành hồ chứa từ Quy trình 740/2019 thành Quy trình 922/2025 cho các hồ chứa trên đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, quy trình này vẫn mang tính “tiền kiểm”. Điều chỉnh mới phù hợp về thời gian tích nước, xả lũ linh hoạt hơn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về phòng chống thiên tai, mà cụ thể là chưa tích hợp với bản đồ ngập lụt hạ du như mô hình của các nước tiên tiến.
Theo quy định hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chịu trách nhiệm vận hành cho 4 hồ do Bộ quản lý, Bộ Công thương chịu trách nhiệm tư vấn vận hành cho trên 30 hồ phân cấp cho Bộ. Số còn lại, việc ra quyết định vận hành là do Chủ tịch tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Ở trung ương thì đã có một số đơn vị tư vấn, tham mưu cho Bộ ra quyết định vận hành, nhưng ở cấp tỉnh thì hầu như chưa có một bộ phận như vậy.
Muốn làm công tác tư vấn vận hành hồ chứa, trước hết phải có đầy đủ số liệu khảo sát về lưu vực: địa hình, lịch sử lũ, thủy văn… Từ đó mới xây dựng mô hình toán. Khi có mô hình và có dự báo mưa, chuyên gia mới tính toán được các thông số lũ và kịch bản vận hành, tham vấn cho tỉnh ra quyết định. Không thể “nhìn trời nhìn đất rồi ra quyết định vận hành”.
Việc này không thể làm trong ngày một, ngày hai mà phải có kế hoạch triển khai bài bản, phải đầu tư cả phần cứng, phần mềm. Nền tảng ra quyết định vận hành phải đầy đủ cơ sở dữ liệu, mô hình tính toán, áp dụng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, máy học,…. Mô hình này còn phải được cập nhật và điều chỉnh hằng năm. Tham mưu cho người ra quyết định sai thì cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
Một trường hợp trẻ sơ sinh ở Đắk Lắk được di dời đến nơi an toàn chiều 19/11. Ảnh: TTXVN
Một trường hợp trẻ sơ sinh ở Đắk Lắk được di dời đến nơi an toàn chiều 19/11. Ảnh: TTXVN
Người dân xã Phong Liên 1 và Phong Liên 2, Đăk Lắk nhận hàng cứu trợ từ trực thăng của Trung đoàn Không quân 917. Ảnh: TTXVN phát
Người dân xã Phong Liên 1 và Phong Liên 2, Đăk Lắk nhận hàng cứu trợ từ trực thăng của Trung đoàn Không quân 917. Ảnh: TTXVN phát
Lực lượng chức năng sơ tán người dân ở Khánh Hòa đến nơi an toàn. Ảnh: TTXVN
Lực lượng chức năng sơ tán người dân ở Khánh Hòa đến nơi an toàn. Ảnh: TTXVN
Lực lượng cứu hộ vào thôn Phước Khánh (xã Ninh Phước) để đưa người dân bị mưa lũ cô lập ra ngoài. Ảnh: Công Thử - TTXVN
Lực lượng cứu hộ vào thôn Phước Khánh (xã Ninh Phước) để đưa người dân bị mưa lũ cô lập ra ngoài. Ảnh: Công Thử - TTXVN
Phóng viên: Về đề xuất “mua dung tích phòng lũ” nhằm bảo đảm cân bằng giữa an toàn dân sinh và lợi ích kinh tế của chủ hồ, xin ông cho biết vì sao, với quy trình hiện tại, chúng ta lại phải đưa ra đề xuất này?
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng: Quy trình vận hành hiện tại có một số điểm như sau: Thí dụ quy trình về nước, về xả nước được chia thành đầu vụ, giữa vụ và cuối vụ. Trong quá trình vận hành liên hồ chứa cũng có ba thời kỳ như vậy. Đầu vụ, thường phải hạ mực nước để đón lũ, giữa vụ, quy trình yêu cầu lưu lượng xả không được lớn hơn lưu lượng đến hồ để hạ dần mực nước. Cuối vụ, phải căn cứ dự báo mưa ngắn hạn và dài hạn để tích nước, đưa mực hồ lên mức dâng bình thường khi kết thúc mùa mưa.
Đó là điều mong muốn. Nhưng thực tế, như đợt lũ vừa rồi, cuối mùa hồ đã tích nước cao dần, sau đó lại xảy ra mưa lớn. Khi mưa lớn đến, không gian còn lại gọi là dung tích đón lũ hầu như không còn bao nhiêu. Thí dụ hồ có dung tích 800 triệu m³ nhưng khả năng đón lũ thực tế chỉ còn khoảng 70 triệu m³, tức khoảng 10%.
Như vậy, chúng ta huy động được cũng chỉ 10%, vì quy trình chỉ để lại 10% dung tích. Nếu bây giờ muốn tăng dung tích đón lũ lên 200 triệu m³ thì phải yêu cầu hồ hạ mực nước sớm. Nhưng khi hạ sớm, nếu sau đó không mưa nữa thì nhà máy thủy điện không đủ nước vận hành. Khi mực nước xuống quá thấp, máy phát còn không được hoạt động vì dễ gây mài mòn tuabin, xâm thực, dẫn đến thiệt hại cho chủ đầu tư. Trong khi đây đều là các chủ đầu tư tư nhân, họ bỏ tiền xây hồ và thực hiện theo đúng quy trình đã được phê duyệt.
Hệ thống hồ thủy lợi và điều tiết lũ tại nam trung bộ:
|
Tỉnh (Khu vực) |
Tên Hồ / Đập |
Loại hình |
Dung tích (106m3) |
Vai trò chính |
|
Đắk Lắk (Phú Yên cũ) |
Sông Ba Hạ |
Thủy điện |
349.7 |
Có tràn xả lũ lớn nhất khu vực. |
|
Sông Hinh |
Thủy điện |
357 |
Điều tiết nước cho phía Nam Phú Yên và cấp nước sinh hoạt. |
|
|
Đồng Cam |
Đập dâng |
N/A |
Không có chức năng cắt lũ, chỉ dâng nước tưới tiêu. |
|
|
Phú Xuân |
Thủy lợi |
11.5 |
Hồ vừa, phục vụ tưới tiêu cục bộ. |
|
|
Khánh Hòa |
Đá Bàn |
Thủy lợi |
75 |
Hồ thủy lợi lớn, đã được sửa chữa nâng cấp an toàn đập (WB8). |
|
Suối Dầu |
Thủy lợi |
33 |
Nguồn cấp nước chính cho công nghiệp và nông nghiệp Diên Khánh. |
|
|
Sông Cái |
Tổng hợp |
110 |
Công trình mới, giúp cắt lũ cho Nha Trang (vận hành từ khoảng 2021-2024). |
|
|
Lâm Đồng |
Đa Nhim |
Thủy điện |
165 |
Điều tiết nước về Phan Rang |
|
Tuyền Lâm |
Thủy lợi |
27 |
Từng có hiện tượng thấm nhẹ, cần theo dõi sát vào mùa mưa lớn. |
|
|
Đại Ninh |
Thủy điện |
251 |
Chuyển nước từ lưu vực Đồng Nai về Bình Thuận (cũ). |
Nếu chúng ta cứ ra lệnh theo kiểu “anh hạ đi”, thì họ cũng miễn cưỡng làm. Họ làm nhưng trong trạng thái “vừa làm vừa nghe ngóng”, nước đến chân mới nhảy. Trong trường hợp này, chủ hồ không sai, vì lệnh vận hành cho phép từ 0 đến 4.000 m³/giây. Còn xả mức nào, vào giờ nào, là họ tự quyết. Tại sao họ phải xả như vậy? Bởi vì họ lo xả sớm mà sau đó không có mưa thì lại hết nước, không vận hành được. Mực nước hồ càng cao thì tiền thu được từ phát điện càng nhiều.
Chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn lợi ích, và hiện nay đang hành chính hóa một vấn đề kỹ thuật vận hành. Điều chúng tôi mong muốn là tìm cách hài hòa lợi ích của chủ hồ với yêu cầu an toàn dân sinh, và “mua dung tích phòng lũ” chính là một hướng để giải quyết điều đó.
Chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn lợi ích, và hiện nay đang hành chính hóa một vấn đề kỹ thuật vận hành. Điều chúng tôi mong muốn là tìm cách hài hòa lợi ích của chủ hồ với yêu cầu an toàn dân sinh, và “mua dung tích phòng lũ” chính là một hướng để giải quyết điều đó.
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng
Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam
Ý tôi muốn nói là phải có cơ chế rõ ràng. Thí dụ, nếu tôi dự báo rằng ba ngày nữa sẽ có lũ lớn và khuyến nghị anh phải xả trước 200 triệu m³ nước, thì trong trường hợp mưa không đến, hồ không tích lại được lượng nước đó, Nhà nước phải bù cho anh phần thiệt hại tương ứng, phần bù đó được lấy từ Quỹ phòng, chống thiên tai. Với khu vực miền Trung, có lẽ đây là giải pháp khả thi nhất.
Hiện nay, chúng ta đang làm theo kiểu miễn cưỡng, dẫn đến nhiều lúc các chủ hồ thủy điện bị oan. Hồ của họ vốn không được thiết kế với nhiệm vụ chính là chống lũ. Quyết định đầu tư đã phê duyệt là xây hồ để phát điện chính. Sai lầm nằm ở chỗ trước đây chúng ta phê duyệt dự án theo tư duy đó, và bây giờ phải sửa. Đã xây một hồ lớn thì mục tiêu thiết kế phải là đa mục tiêu, trong đó nhiệm vụ chống lũ cần được ưu tiên hàng đầu.
Có chuyện tranh luận về hồ Hòa Bình: đó là hồ thủy lợi hay hồ thủy điện? Không thể chỉ vì Bộ Công thương quản lý mà mặc định đó là hồ thủy điện. Mục tiêu đầu tiên khi xây dựng hồ Hòa Bình là giảm lũ cho Hà Nội, vậy bản chất nó phải là hồ thủy lợi. Chỉ là về mặt quản lý, Bộ Công Thương phụ trách vận hành. Còn mục tiêu trong thiết kế thì ưu tiên số một là chống lũ, mục tiêu thứ hai mới là phát điện.
Trong khi đó, một số hồ khác lại được phê duyệt với mục tiêu ưu tiên số một là phát điện, còn giảm lũ chỉ xếp thứ hai, mang tính kết hợp. Việc phê duyệt dự án 5 năm đến 10 năm trước chưa đúng ở điểm này. Nay khi thấy bất cập thì phải sửa, nhưng không thể làm theo kiểu mệnh lệnh hành chính. Chúng ta vẫn cần hài hòa với nhà đầu tư, họ bỏ vốn tham gia phát triển đất nước, đến lúc khó khăn lại đổ hết trách nhiệm cho họ thì không thỏa đáng. Phải có cách tiếp cận nhân văn và hợp lý.
Đây cũng là đề xuất của Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam nhiều năm nay chúng tôi đã nhiều lần kiến nghị. Vừa rồi, qua các sự cố, càng thấy cần phải đặt vấn đề này trở lại một cách nghiêm túc.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!
Bài 1: Vì sao miền trung mưa lũ kỷ lục?
Chỉ đạo sản xuất: Phan Văn Hùng - Nguyễn Ngọc Thanh
Tổ chức sản xuất: Hoàng Nhật - Hồng Vân
Nội dung: TS Nguyễn Quốc Dũng - Thanh Trà
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN
