Bánh chưng Tết phố xưa

Nơi Kẻ Chợ phồn hoa xưa, nhiều thức ngon vật lạ, giao thương lại phát triển thì văn hóa bánh chưng sẽ hiện hữu như thế nào? “Văn hóa bánh chưng” nơi đây cũng đặc sắc, riêng biệt, đúng với tinh thần đất Kẻ Chợ.
Người Hà Nội xưa gói bánh chưng. Ảnh tư liệu
Người Hà Nội xưa gói bánh chưng. Ảnh tư liệu

Tìm “hồn” bánh chưng giữa Kẻ Chợ

Ký ức đó còn nguyên vẹn trong gia đình một nhà đại tư sản từng giàu nhất nhì Hà Nội - nhà tư sản Đỗ Đình Thiện. “Nhất Trịnh Văn Bô, nhì Đỗ Đình Thiện” là câu cửa miệng của giới thương gia Đông Dương những năm 1930-1940.

Theo TS Đỗ Quốc Thắng, cháu nội cụ Đỗ Đình Thiện, gia đình ông có truyền thống tự làm, tự gói các loại bánh, mứt kẹo khi Tết đến xuân về. “Tôi còn nhớ mới chỉ rậm rịch Tết mà người dân các vùng quê quanh Hà Nội đã lũ lượt quảy những “gánh đặc sản” đến trước cửa nhà để chào mời mua, chủ yếu là gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… Không khí mua bán rất rộn ràng, vui vẻ”, TS Thắng nhớ lại. Riêng về “khoản” bánh chưng thì gia đình phân chia rất rõ ràng. Những việc cần sự khéo léo, tỉ mỉ như ngâm gạo, đỗ, rửa lá, gói bánh… thì bà nội, mẹ, các cô, các chị sẽ lo liệu, còn phần luộc bánh, trông bánh thì những người nam sẽ đảm trách. Trẻ con chỉ được phụ giúp những việc vặt, nhưng thế cũng rất thích!

Thời ấy những nhà không làm được bánh chưng có thể mua tại các cửa hàng trên phố. Có lẽ chỉ những đô thị phồn hoa mới có chuyện mua bánh chưng ngày Tết, trong khi ở các địa phương khác, người ta vẫn quen tự làm. Khai thác tư liệu tại Thư viện Quốc gia, chúng tôi phát hiện trong khoảng những năm 40, 50 của thế kỷ trước, trên các tờ báo như Tia Sáng, Đông Pháp, Cứu Quốc... có các mẩu quảng cáo của các cửa hàng bán bánh chưng nổi tiếng thời bấy giờ như: Quốc Việt, Quốc Hương, Á Đông… Có những dòng thơ đầy hấp dẫn: “Giò, bánh Tết: Lá xanh, gạo trắng, đỗ vàng/Tiêu cay, mỡ ngậy lại càng thơm ngon/Bánh chưng Quốc-Việt vang đồn/12 Hàng Nón ai còn nhớ không?” (Báo Tia Sáng, 7/2/1948). Hay: “Bánh chưng Quốc Việt thơm ngon/Quà sêu tiệc cưới ai còn nhớ không?/12 Hàng Nón mua dùng/Món quà quốc túy ta cùng nếm chơi!” (Báo Tia Sáng, 25/1/1948). Một cửa hàng cũng thường xuất hiện trong các mẩu quảng cáo là Á Đông: “Bánh dày, bánh chưng, giò chả, nem. Việc hiếu hỷ nên thưa tại hiệu Á Đông, 128 Cột Đồng Hồ” (Báo Tia Sáng, 24/1/1952), và nhiều các thương hiệu khác.

Đi tìm những thương hiệu cách nay gần trăm năm này, chúng tôi được bà Chu Thị Hồng (81 tuổi), đang sinh sống tại ngôi nhà 12 Hàng Nón cho biết: “Vào những năm 40 của thế kỷ trước, nơi đây chính là cửa hàng giò chả, bánh chưng Quốc Việt nức tiếng Hà thành. Hồi ấy, người đi đường chỉ cần đi qua cũng có thể thấy không khí buôn bán nơi đây sầm uất đến mức độ nào. Đặc biệt là những dịp cận Tết, người ra kẻ vào, lúc nào cũng đông nườm nượp. Với nhiều người Kẻ Chợ và ngoại tỉnh khi ấy, ngày Tết mà được thưởng thức bánh chưng Quốc Việt thì mới là “sành ăn”, “sành chơi”, mới thẩm thấu được hết cái tinh túy của văn hóa ẩm thực Hà thành. Cửa hiệu tồn tại đến năm 1948, thì cụ Nguyễn Văn Diệu, bố chồng tôi mua lại căn nhà này để bán cờ, phướn thêu phục vụ cho các dịp hiếu, hỷ, ông chủ hiệu Quốc Việt cũng chuyển đi đâu không rõ tung tích”.

Chúng tôi tìm đến cửa hàng giò chả, bánh chưng nức tiếng hiện nay là Quốc Hương. Theo bà Nguyễn Thị Chấn (85 tuổi), chủ hiệu Quốc Hương, số 9 phố Hàng Bông, việc kinh doanh của nhà Quốc Hương từ thời khai hiệu đến nay đã xấp xỉ 200 năm. Còn tính từ khi bà Chấn ra riêng cũng hơn 65 năm rồi. “Ngày xưa, từ đời các cụ, hiệu Quốc Hương còn gọi là hiệu giò chả, bánh chưng Hàng Hài (sau này tên phố được đổi, nhập với phố Hàng Bông cũ để thành phố Hàng Bông hiện tại). Để có được cơ ngơi như thế, một thời gian dài trước đó, các cụ phải “quảy gánh” đi bán rong khắp các “hang cùng ngõ hẻm” của phố cổ Hà Nội”, bà Chấn kể. Cũng theo bà Chấn, bánh chưng xưa nhỏ hơn nhiều so bây giờ. Về nguyên liệu thì được kén chọn kỹ càng, từ gạo, đậu đến thịt đều là hàng nhất phẩm.

Buôn bán lâu đời là thế, nhưng công việc của bà Chấn từng có lúc thăng trầm. Thời bao cấp, mặt hàng bà bán được coi là “xa xỉ phẩm”. Đến năm 1960, bà tạm ngừng việc kinh doanh cửa hàng riêng, trở thành mậu dịch viên của Công ty ăn uống nhà nước. Tưởng chừng đã bỏ nghiệp gia truyền, nhưng sau khi đất nước thống nhất vài năm, bà đã “khởi nghiệp” trở lại.

Ảnh: NAM ANH

Ảnh: NAM ANH

Những chiếc bánh chưng phi thường

Chiếc bánh chưng gắn liền với những thăng trầm, biến thiên của lịch sử. Có câu chuyện La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp từng vượt nguy hiểm trùng trùng từ đất Nghệ ra Thăng Long, chỉ để biếu đề lĩnh Thăng Long một chiếc bánh chưng. Nhưng chiếc bánh chưng này chứa mật dụ của Vua Quang Trung, nhờ đề lĩnh ghé vai, giúp sức trong công cuộc chống giặc Thanh xâm lược. Học giả Hoa Bằng gọi đó là “chiếc bánh chưng phi thường”.

Trên báo Đông Pháp còn ghi lại những cảnh này cách nay đã gần 100 năm: “Hàng ngày một cảnh tượng rất thương tâm xuất hiện ra trước mắt bà con trong thành phố về đời sống của đám trẻ em nghèo. Cơm hai bữa còn chưa đủ, lấy đâu được manh áo ấm, miếng quà Tết. Vì tình cảnh đó, năm nay, một số các bà, các cô, các quan chức, thân hào, thương gia, thanh niên trong thành phố cho mở cuộc lạc quyên các đồ vặt để tổ chức những tối hát và mở chợ phiên để lấy tiền nấu bánh chưng phát cho trẻ em nghèo hôm gần Tết và bày cho chúng các trò vui (Báo Đông Pháp, 10/1/1939). Các trang báo khác còn liệt kê: “Các nhà từ thiện với trẻ nghèo: Cụ Thiếu Hà Đông: 40 cái bánh chưng, 10 cân đường; Bà Lê Trung Ngọc (Tổng đốc) và bà Thuận Tinh: 100 bánh ngọt và bánh chưng; Bà Phạm Gia Thụy (Tổng đốc): 100 cái bánh chưng và 4 cân mứt… (Hà Thành Ngọ Báo, 15/2/1935).

Chiếc bánh chưng xưa đã đi cùng các chiến sĩ vệ quốc đoàn, là món quà của nhân dân ủng hộ quỹ kháng chiến, quỹ Độc Lập: “Ủng hộ quỹ kháng chiến, quỹ Độc Lập, quỹ Vệ Quốc Đoàn: Nhân viên nhà Đông Dương Ngân hàng, Địa ốc ủng hộ cam, bánh chưng cho bộ đội nằm điều dưỡng tại các bệnh viện. Đoàn Phụ nữ cứu quốc ủng hộ bánh chưng, cam bưởi, chè, mứt kẹo…; nhân dân: 8 con gà, 2 con vịt, 10 bánh chưng,… (Báo Cứu Quốc, ngày 11/12/1946). Đó cũng là tình cảm của Bộ đội Cụ Hồ dành cho nhân dân: “Kết quả buổi dạ hội do bộ đội ngoại thành Hà Nội tổ chức tại rạp hát làng Khương Thượng ngày 28/1/1946 đã giúp quỹ cứu đói 4.272 đồng, mua bánh chưng phát cho đồng bào nghèo” (Báo Cứu Quốc, 11/12/1946).

Cuộc cách mạng 4.0 sẽ làm con người ta sống nhanh hơn trong kỷ nguyên số, nhưng có lẽ người Việt vẫn chơi Tết và ăn bánh chưng như thường, để lưu giữ một nét văn hóa đặc sắc từ nghìn đời nay.

Hiệu bánh chưng Quốc Việt cùng cửa hiệu mũ nón Tân Hưng (số 7 Hàng Nón) ở đối diện và ngôi nhà số 15 Hàng Nón - nơi thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ (tiền thân của Công đoàn Việt Nam) từng là “căn cứ” vững vàng cho cách mạng. Theo bà Chu Thị Hồng, trước đây, ngôi nhà 12 Hàng Nón có đường bí mật thông ra phố Hàng Bồ và Lương Văn Can để các đồng chí cách mạng rút lui khi có biến. Năm 1948, cụ Diệu mua lại căn nhà này thì cũng không còn thấy nữa.

Có thể bạn quan tâm

Nhà sưu tập Đặng Vũ Khương cùng đại diện người dân Tri Chỉ kiểm tra tình trạng sắc phong. Ảnh: NCVV

Gìn giữ sắc vàng son

“Lúc ấy là cuối những năm 90, khi mà một tờ sắc phong còn được tặng kèm khi mua một chiếc bình cổ, khi mà tìm kiếm trên mạng internet còn không có bất kỳ thông tin gì về hai từ sắc phong… thì chúng tôi đã bị những vết tích vàng son ấy của quá khứ cuốn hút, mê hoặc”, anh Nguyễn Ánh Ngọc (51 tuổi) bày tỏ. Suốt hơn 25 năm, anh Ngọc cùng những người bạn sáng lập nhóm facebook “Hội mê sắc phong” vẫn âm thầm trên hành trình tìm kiếm, giữ gìn và trao trả những di vật quý giá ấy lại về nơi bắt nguồn.
Minh họa: VŨ ĐÌNH TUẤN

Áo Tết

Năm ấy, sáng mồng Một, mưa phùn lắc rắc, mẹ ân cần dẫn ba anh em tôi đi chơi Tết nhà ông bà ngoại ở giữa làng. Con đường men theo bờ đầm ngập tràn cỏ dại và những khóm rau khúc tươi non. Thỉnh thoảng là các ô mạ xanh rờn chờ hết đợt rét sẽ được đưa xuống cấy. Đàn én trao liệng rộn rã không trung.
Ảnh: CAO TRUNG VĨNH

Hồi lại những mùa xuân

Hình ảnh đẹp nhất trong tôi khi được lên vùng cao đón Tết cùng đồng bào là lá cờ đỏ sao vàng trên mỏm đá tai mèo bay trong gió lộng thung lũng Hang Táu, xã Chiềng Hắc, thị trấn Mộc Châu (Sơn La). Bóng đen đại dịch đã gần như biến mất, những cái Tết buồn lắng đã nhường chỗ cho mùa xuân tươi mới hồi sinh.
Ngay sau lũ, bà con xã Tà Cạ tranh thủ trồng rau, nuôi gà để phục vụ Tết Quý Mão 2023.

Hồi sinh trên đất lũ

Trận lũ quét lịch sử đầu tháng 10/2022 đã cuốn trôi và làm hư hỏng hàng trăm ngôi nhà cùng tài sản của bà con xã Tà Cạ, thị trấn Mường Xén, huyện biên giới rẻo cao Kỳ Sơn (Nghệ An). Tinh thần đoàn kết, lá lành đùm lá rách trong cả nước đã giúp đồng bào nơi đây dần sớm ổn định cuộc sống.
Rừng nguyên sinh Đông Dương có hơn 150 cây dược liệu, rất nhiều cây dược liệu quý hiếm.

Thanh xuân của làng

Tuổi rừng tính ra hơn tuổi người, tuổi cây cũng hơn… Người làng Đông Dương, xã Hải Dương (huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị) đã dùng sức lực của từng con người nhỏ bé để bảo vệ khu rừng hơn 500 tuổi có diện tích hơn 60ha, trong đó hơn 10ha là rừng tự nhiên.
Một góc thành phố Bến Tre hôm nay. Ảnh: TRUNG HIẾU

“Đồng khởi mới” ở Bến Tre

Tôi lại có dịp qua cầu Rạch Miễu vắt qua sông Tiền dài rộng để về với xứ dừa bát ngát của Bến Tre - nơi mở đầu “phong trào đồng khởi” ở miền Nam vùng lên chống lại ách kìm kẹp của Mỹ - ngụy từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20.
Đám rước trong lễ tế Nam Giao năm 1939. Ảnh tư liệu

Vương triều xưa đón Tết

Tết trong các vương triều xưa cũng mang đậm dấu ấn phong tục chung của người Việt. Tuy nhiên, ngày Tết trong vương triều nhiều nghi lễ hơn, long trọng hơn. Cũng là dịp thể hiện bộ mặt quốc gia, mang đậm bản sắc dân tộc.