CẤP BÁCH
GIẢI BÀI TOÁN MÔI TRƯỜNG Ở HÀ NỘI

Thủ đô Hà Nội là đô thị đặc biệt, giữ vai trò trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và an ninh quốc phòng, cũng là đô thị có diện tích, dân số lớn hàng đầu cả nước. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, Hà Nội cũng cao nhất toàn quốc. Tuy nhiên, cùng với đó, Hà Nội đã và đang phải đối diện với rất nhiều thách thức, trong đó có vấn đề về môi trường như ô nhiễm không khí, quá tải trong xử lý chất thải rắn, nước thải,...
Tại Quy hoạch Thủ đô, vấn đề môi trường được đặt lên là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong số các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách cần giải quyết của Thủ đô trong giai đoạn 2025-2030.
NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI HÀ NỘI
Dân số Hà Nội đã lên đến gần 9 triệu người. Thành phố hiện có 8 khu công nghiệp, khoảng 1.300 làng nghề, hơn 7 triệu xe máy và hơn 1 triệu ô-tô. Mỗi ngày thành phố tiêu thụ khoảng 80 triệu kWh điện và hàng triệu lít xăng dầu. Tình trạng đốt phụ phẩm nông nghiệp và rác thải tự phát; biến đổi khí hậu; quy hoạch đô thị thiếu lồng ghép giải pháp bảo vệ môi trường; nhận thức của một bộ phận không nhỏ người dân đang tạo ra những thách thức cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sống.
Tại Hội thảo “Thực trạng và giải pháp xử lý các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường thủ đô Hà Nội”, diễn ra tại Hà Nội, ngày 14/3, UBND thành phố Hà Nội và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có đưa ra một số thống kê đáng lưu ý về tình trạng ô nhiễm ở Hà Nội. Năm 2023, Việt Nam đứng thứ 2 về mức độ ô nhiễm bụi PM2,5 trong số các nước Đông Nam Á. Trong đó Hà Nội là thành phố xếp thứ 2 khu vực về chỉ số này.
Hội thảo “Thực trạng và giải pháp xử lý các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường thủ đô Hà Nội”, diễn ra tại Hà Nội ngày 14/3. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Hội thảo “Thực trạng và giải pháp xử lý các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường thủ đô Hà Nội”, diễn ra tại Hà Nội ngày 14/3. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Số lượng rác thải sinh hoạt tại Hà Nội tăng đều qua các năm, từ 6400 tấn/ngày vào năm 2014 đến 7500 tấn/ngày năm 2025, tăng thêm khoảng 17% sau 10 năm. Nhưng việc thu gom và xử lý vẫn chưa đạt hiệu quả triệt để. Về vấn đề nước thải tại Thủ đô, chỉ khoảng 30% nước thải sinh hoạt hằng ngày được xử lý trước khi xả ra các sông, hồ trong đô thị. Tình trạng ô nhiễm tại các con sông như Tô Lịch, Kim Ngưu, Hồ Tây đã kéo dài nhiều năm gây bức xong cho người dân.
Có thể thấy, các vấn đề ô nhiễm môi trường của Thủ đô Hà Nội tập trung chính và các vấn đề: ô nhiễm không khí, nước thải và xử lý chất thải rắn.
Ô NHIỄM VÀ SUY GIẢM CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ

Trong những năm qua, chất lượng không khí trên địa bàn thành phố Hà Nội chưa có dấu hiệu được cải thiện. Đến nay, Hà Nội vẫn luôn được xếp trong top những thành phố có mức độ ô nhiễm không khí cao nhất thế giới.
Có những thời điểm trong ngày và có những ngày trong năm, chỉ số chất lượng không khí tổng hợp (AQI) tại một số điểm quan trắc trong nội thành ở mức tím “rất xấu” cho sức khỏe (201-300). Kết quả quan trắc cho thấy, số ngày có chỉ số AQI ở mức kém và xấu chiếm hơn 30% tổng số ngày quan trắc trong năm.
Yếu tố gây ra tình trạng ô nhiễm và suy giảm chất lượng môi trường không khí trên địa bàn Thành phố Hà Nội chủ yếu do ô nhiễm bụi, nồng độ bụi lơ lửng, bụi tổng số (TSP), bụi PM10 và bụi mịn (PM2,5, PM5). Chỉ số nồng độ trung bình PM2,5 cao vượt quá quy chuẩn cho phép (QCVN 05:2023) gấp 1,5-2 lần trong nhiều ngày. Điển hình là mùa đông năm 2024, khi chỉ số AQI cao ở mức đỏ, tím thậm chí nâu trong nhiều ngày liên tục. Năm 2023, số ngày giá trị AQI ở mức tốt chỉ chiếm khoảng 15% số ngày trong năm, số ngày AQI ở mức trung bình chiếm khoảng 50%, số ngày ở mức Kém và Xấu chiếm tổng tỷ lệ khoảng 34%.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, mỗi năm có khoảng 7 triệu ca tử vong sớm do ô nhiễm không khí, con số đáng kinh ngạc là 800 người mỗi giờ hoặc 13 người mỗi phút. Số lượng người chết do các nguyên nhân bắt nguồn từ bụi mịn PM2,5 ở Hà Nội cao: 5.800 người/năm. Chi phí y tế và phúc lợi xã hội cứu chữa các bệnh do bụi mịn gây ra là rất lớn: 7,74% GRDP của Hà Nội (báo cáo của Ngân hàng Thế giới 2022). Nhìn chung, ô nhiễm không khí là nguyên nhân gây ra nhiều ca tử vong hơn nhiều yếu tố nguy cơ khác, bao gồm suy dinh dưỡng, sử dụng rượu và không hoạt động thể chất.

Do đặc điểm khí hậu thời tiết của các tỉnh phía bắc, vào mùa đông khi nhiệt độ giảm, gió lặng, ít mưa hạn chế độ khuếch tán không khí làm cho nồng độ PM2.5 trong mùa đông có xu hướng đặc biệt cao. Mức độ ô nhiễm tại các quận nội thành cũng cao hơn tại các huyện nội thành.
Theo Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, nguồn gây ô nhiễm không khí ở Hà Nội là do chưa kiểm soát được tốt các nguồn thải từ các hoạt động giao thông (bao gồm từ ống xả xe và bụi đường), công nghiệp (đốt than, dầu diesel, đốt rác...), xây dựng (bụi xây dựng), nông nghiệp (Amonia sinh ra bụi thứ cấp từ các trang trại chăn nuôi, phân bón), đốt phụ phẩm nông nghiệp sau thu hoạch và đốt rác hở… Ngoài ra, bụi từ các tỉnh lân cận cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng không khí Hà Nội như Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc…

Còn theo Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Thị Kim Chi, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, một trong những nguồn gây ra tình trạng ô nhiễm tới từ các làng nghề trên địa bàn thành phố. “Số lượng làng nghề của Hà Nội rất lớn so với các thủ đô trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù từ lâu, chúng ta đã nhìn nhận ra được những bất cập về ô nhiễm đến từ đây nhưng lại chưa có những giải pháp mạnh mẽ, đầu tư đúng đắn việc xử lý ô nhiễm từ các làng nghề”.
Chúng ta chưa có những giải pháp mạnh mẽ, đầu tư đúng đắn việc xử lý ô nhiễm từ các làng nghề. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Chúng ta chưa có những giải pháp mạnh mẽ, đầu tư đúng đắn việc xử lý ô nhiễm từ các làng nghề. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Một trong những vấn đề cho thấy ô nhiễm không khí ngày càng nghiêm trọng chính là việc chúng ta dễ dàng cảm nhận sự ô nhiễm khi thấy được bằng mắt, hít được bằng mũi và “thấm” được bằng sức khỏe. Đơn cử như những ngày qua, thời tiết thay đổi thất thường, Hà Nội trở nên “ngột ngạt”. Sáng sớm ra đường nhiều hôm khó phân biệt đâu là sương mù và đâu là bụi. Rồi cả hai yếu tố này cùng đến, kết hợp với nhau khiến hít thở cũng trở nên khó khăn. Các bệnh về đường hô hấp cũng có chiều hướng gia tăng.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Quỳnh Anh, Đại học Y Hà Nội cho biết: “Các chỉ số PM2,5 cao hơn ở những ngày nồm ẩm. Bởi vì trong điều kiện thời tiết này, không khí bị pha loãng, các chất ô nhiễm trong không khí không thể phát tán được. Nhóm đối tượng có nguy cơ cao và dễ bị tổn thương như trẻ em, người già hoặc người có bệnh hô hấp sẵn, bệnh hen rất dễ gặp tình trạng khó thở”.
TỐC ĐỘ ĐÔ THỊ HÓA TỶ LỆ THUẬN VỚI CÁC VẤN ĐỀ VỀ NƯỚC THẢI

Hà Nội nói riêng và các khu đô thị ở nước ta nói chung hầu hết nước thải sinh hoạt đều chưa được xử lý mà đổ thẳng ra các sông hồ trong đô thị. Tổng lượng nước thải hằng ngày của thành phố vào khoảng 320.000m3 trong đó có tới 1/3 là nước thải công nghiệp. Trên thực tế, có những con sông ở Hà Nội đã trở thành dòng sông chết do bị ô nhiễm quá nghiêm trọng, như sông Tô Lịch, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của những người dân khu vực lân cận.
Nhu cầu về nước dùng ngày một gia tăng, mức xả nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất cũng gia tăng, do vậy, chất lượng môi trường nước cũng đang ngày càng bị suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là nguồn nước mặt. Các nguồn gây ô nhiễm trên các hệ thống thoát nước ngày càng xuất hiện nhiều, đa dạng và khó kiểm soát.
Tổng lượng nước thải hằng ngày của thành phố Hà Nội vào khoảng 400.000m3, trong đó có tới 1/3 là nước thải công nghiệp.
Tổng lượng nước thải hằng ngày của thành phố Hà Nội vào khoảng 400.000m3, trong đó có tới 1/3 là nước thải công nghiệp. Khoảng 100% các khu công nghiệp có các trạm xử lý nước thải đạt quy chuẩn môi trường, nhưng chỉ khoảng 60% các cụm công nghiệp có các trạm xử lý nước thải tập trung.
Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Đăng, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, đánh giá: “Hệ thống thoát nước thải và hệ thống thoát nước mưa là hệ thống chảy chung, chắp vá và xuống cấp nghiêm trọng. Phần lớn nước thải sinh hoạt không được xử lý và đổ thẳng vào các sông hồ Hà Nội, làm cho nước sông hồ bị ô nhiễm trầm trọng. Hiệu quả xử lý nước thải của các trạm xử lý nước thải hiện nay rất kém hiệu quả".
Hệ thống thoát nước thải của khu vực trung tâm Thành phố Hà Nội với tổng chiều dài khoảng 120km đường ống cống có đường kính từ 600-1.000mm, trong đó có trên 75km đã được xây dựng từ thời Pháp thuộc, hiện nay đã bị hư hỏng và xuống cấp.
Lưu vực thoát nước sông Tô Lịch được phân chia thành 8 tiểu lưu vực thoát nước nhỏ, trong đó có 4 con sông thoát nước chính đóng vai trò như là mạng lưới kênh thoát nước thải cấp I là các sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét và sông Kim Ngưu, với tổng chiều dài các sông là 38,2km, chiều rộng trung bình từ 10-45m.
Các sông nội thành Hà Nội là các điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước trên lưu vực sông Nhuệ-Đáy. Chất lượng nước sông liên tục ở mức ô nhiễm nặng và chưa có dấu hiệu được cải thiện và cần có các biện pháp xử lý.
Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Đăng cũng chia sẻ: “Đô thị hóa Hà Nội đã san lấp nhiều sông, ao, hồ, các vùng đất trũng, các vùng đất nông nghiệp..., làm giảm khả năng tích chứa nước mưa, bê tông hóa các bề mặt đất đô thị làm cho mặt đất không có khả năng thấm nước khi mưa, do đó đã gây ra úng ngập đô thị rất trầm trọng, gây thiệt hại lớn về kinh tế-xã hội và rất mất vệ sinh”.
Ô nhiễm môi trường nước gây ra nhiều bệnh tật cho người dân, đặc biệt là các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa, da liễu, nhiễm khuẩn và ngộ độc kim loại nặng. Những bệnh này làm gia tăng gánh nặng cho hệ thống y tế và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Ô nhiễm nước còn tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, thủy sản và làm giảm nguồn nước sạch phục vụ sinh hoạt, dẫn đến tình trạng thiếu nước sạch ở một số khu vực.
CHẤT THẢI RẮN NHIỀU NHƯNG KHÓ XỬ LÝ
Tổng lượng chất thải rắn Hà Nội tăng trưởng trên 10%/năm, trong đó bao gồm các loại chất thải rắn chủ yếu: sinh hoạt, công nghiệp, y tế. Số lượng chất thải rắn tăng cao liên tục nhưng rất khó xử lý.
Năm 2011, tổng lượng phát sinh chất thải rắn sinh hoạt ở Hà Nội là khoảng 6.500 tấn/ngày, hiện nay tăng tới 8.500-9.000 tấn/ngày. Năm 2011, tỷ lệ thu gom chất thải rắn nội thành là khoảng 95%, ngoại thành là khoảng 77%.
Số lượng chất thải rắn tại Hà Nội tăng cao liên tục nhưng rất khó xử lý. Ảnh: SƠN BÁCH
Số lượng chất thải rắn tại Hà Nội tăng cao liên tục nhưng rất khó xử lý. Ảnh: SƠN BÁCH
Đến năm 2024, tỷ lệ thu gom chất thải rắn nội thành đạt khoảng 98%, tại các huyện ngoại thành đạt khoảng 85%. Lượng chất thải rắn này chủ yếu được thu gom và phân luồng vận chuyển về các khu xử lý của Thành phố tại khu xử lý chất thải Nam Sơn, Sóc Sơn (trung bình khoảng 5.000 tấn/ngày) và khu xử lý Xuân Sơn, Sơn Tây (1.300-1.400 tấn/ngày), lượng chất thải sinh hoạt còn lại được thu gom, xử lý tại các khu xử lý quy mô cấp huyện. Tồn tại cấp bách nhất về quản lý chất thải rắn sinh hoạt Hà Nội hiện nay là chưa thực hiện được “Phân loại chất thải rắn tại nguồn”, gây trở ngại rất lớn cho xử lý chất thải rắn đúng kỹ thuật vệ sinh môi trường, tiết giảm, tái chế, tái sử dụng có hiệu quả đối với chất thải rắn.
Tồn tại cấp bách nhất về quản lý chất thải rắn sinh hoạt Hà Nội hiện nay là chưa thực hiện được “Phân loại chất thải rắn tại nguồn”, gây trở ngại rất lớn cho xử lý chất thải rắn đúng kỹ thuật vệ sinh môi trường, tiết giảm, tái chế, tái sử dụng có hiệu quả đối với chất thải rắn.
Đối với chất thải rắn công nghiệp phát sinh khoảng 863,2 tấn/ngày, trong đó lượng rác nguy hại khoảng 217 tấn/ngày (chiếm 25,14%). Chất thải rắn bình thường được phân loại ngay tại nguồn để phục vụ nhu cầu tái chế, tái sử dụng lại, phần chất thải rắn nguy hại được hợp đồng với đơn vị có chức năng để thu gom, vận chuyển, xử lý. Tỷ lệ thu gom rác bình thường khoảng 85-90% và xử lý khoảng 59-63%.
Theo thống kê, tỷ lệ gia tăng chất thải rắn nguy hại trung bình khoảng 20%/năm. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Theo thống kê, tỷ lệ gia tăng chất thải rắn nguy hại trung bình khoảng 20%/năm. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Theo thống kê, tỷ lệ gia tăng chất thải rắn nguy hại trung bình khoảng 20%/năm. Tỷ lệ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại khoảng 99% (tương đương với 215 tấn/ngày), còn lại một số cơ sở do lượng chất thải phát sinh quá ít hiện được lưu giữ tạm thời tại cơ sở.
Tại Hà Nội, chất thải rắn y tế ước tính mỗi ngày khoảng 26.531 kg/ngày (trong đó chất thải nguy hại khoảng 7.457 kg/ngày và chất thải thông thường khoảng 19.074 kg/ngày) trên địa bàn thành phố. 99% các bệnh viện, trung tâm y tế của Thành phố Hà Nội thực hiện việc xử lý chất thải rắn y tế nguy hại theo mô hình tập trung, ký hợp đồng với các đơn vị có giấy phép xử lý chất thải nguy hại để vận chuyển và xử lý chất thải y tế.
Công nghệ xử lý chất thải rắn chủ yếu (khoảng 90%) vẫn là phương pháp chôn dưới đất, có nhược điểm là sử dụng quỹ đất lớn, không có khả năng mở rộng và gây ra ô nhiễm môi trường nước, môi trường không khí và môi trường đất.
Dọn vệ sinh dịp Tết Nguyên đán. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Dọn vệ sinh dịp Tết Nguyên đán. Ảnh: THÀNH ĐẠT
UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành quy chế quản lý chất thải rắn Hà Nội, trong đó từ tháng 6 năm 2024, bắt đầu thí điểm phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn ở 23 phường thuộc 5 quận (Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Nam Từ Liêm). Thời gian thí điểm giai đoạn 1 đến quý I/2025. Sau đó, các quận tổ chức rút kinh nghiệm, điều chỉnh phương án để tiếp tục thí điểm giai đoạn 2 trong các tháng còn lại của năm 2025. Mục đích của Dự án thí điểm này là để có số liệu, kinh nghiệm thực tế cho triển khai Đề án “Phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn” trên toàn thành phố vào năm 2026.
GIẢI "BÀI TOÁN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG" CẦN NHỮNG GIẢI PHÁP CẤP BÁCH, HIỆU QUẢ
Ô nhiễm môi trường là bài toán khó không phải chỉ riêng với Hà Nội mà còn là chung của cả nước và ở tất cả các thành phố trong khu vực và trên thế giới. Tác động của biến đổi khí hậu, kinh tế thị trường khiến môi trường mỗi ngày chịu thêm nhiều tác động chứ khó mà ít đi được. Do đó, giải pháp cho cải thiện môi trường cũng cần linh hoạt, liên tục đánh giá để đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tế.
Công tác bảo vệ môi trường Thủ đô luôn là vấn đề trọng tâm, được Trung ương và lãnh đạo Thành phố quan tâm hàng đầu. Điều này được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Trung ương, Thành phố và đã được tổ chức triển khai thực hiện trong thời gian qua.
Gần đây nhất là 3 văn kiện quan trọng, Luật Thủ đô sửa đổi năm 2024 và 2 Quy hoạch của Thủ đô mới được phê duyệt. Trong đó, Luật Thủ đô đã nêu cụ thể một số nhiệm vụ cần triển khai về xác định vùng phát thải thấp. Tại Quy hoạch Thủ đô, vấn đề môi trường được đặt lên là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong số các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách cần giải quyết của Thủ đô trong giai đoạn 2025-2030.

Thực hiện chủ trương đó, Thành phố Hà Nội đang quyết liệt thực hiện nhiều hoạt động nhằm cải thiện môi trường. Và với tinh thần cầu thị, UBND Thành phố Hà Nội đã phối hợp cùng Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tổ chức Hội thảo “Thực trạng và giải pháp xử lý các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường thủ đô Hà Nội” để lắng nghe ý kiến tâm huyết, những ý tưởng sáng tạo, giải pháp khả thi của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý nhằm mục đích có thể nhanh chóng cải thiện chất lượng môi trường của Thành phố, góp phần xây dựng Thủ đô Hà Nội văn hiến, văn minh, hiện đại.
Đông đảo đại biểu dự hội thảo “Thực trạng và giải pháp xử lý các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường thủ đô Hà Nội”. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Đông đảo đại biểu dự hội thảo “Thực trạng và giải pháp xử lý các vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường thủ đô Hà Nội”. Ảnh: THẾ DƯƠNG
Tại hội thảo, các nhà khoa học cho rằng, cần thay đổi cách tiếp cận mới, các giải pháp mới, các chính sách mới mang tính đột phá về vấn đề môi trưởng. Bàn về vấn đề tổng thể, Tiến sĩ Nguyễn Việt Anh, Viện trưởng Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội cho rằng, cần rà soát loại quy hoạch xem còn phù hợp với thực tiễn hay không. Từ đó mới có thể mạnh dạn áp dụng những giải pháp, công cụ mạnh mẽ mang tính đột phá, nhất quán và đồng bộ.
Tiếp nối nội dung trên, nhiều ý kiến thống nhất với việc cần chuyển đổi số để thực hiện chuyển đổi xanh, cần áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ trong các hoạt động bảo vệ môi trường. Giáo sư, Tiến sĩ Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đưa ra quan điểm, Khoa học công nghệ có thể áp dụng để xử lý ô nhiễm không khí, nước, chất thải và ứng dụng quản lý tổng thể môi trường đô thị. “Cần thiết phải đầu tư công nghệ từ xử lý nước thải, khí thải, mở rộng quy mô, đồng bộ hóa các hệ thống thu gom, xử lý, tăng cường tái sử dụng chất thải và rác thải”.
Một góc thành phố Hà Nội.
Một góc thành phố Hà Nội.
Đồng tình với quan điểm này, Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng cho rằng, song hành cùng việc đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ thì chúng ta cần kêu gọi sự tham gia của đội ngũ các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường để tạo sự đồng bộ, hiệu quả trong chuyển đổi số hướng tới chuyển đổi xanh. Bên cạnh đó, cần xây dựng được cơ sở dữ liệu khoa học chi tiết, đầy đủ phục vụ cho việc xây dựng chính sách, phương án và giải pháp đối với các vấn đề về môi trường một cách phù hợp, hiệu quả.
Ngoài ra, điều mà nhiều chuyên gia quan tâm, góp ý là việc cần sớm xây dựng được các bộ quy chuẩn về các lĩnh vực môi trường, đặc biệt đối với vấn đề không khí. Mới đây nhất, ngày 13/3, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cũng yêu cầu, đối với những thành phố, đô thị có mức ô nhiễm không khí cao như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cần nghiên cứu áp dụng nhanh hơn, sớm hơn quy chuẩn về khí thải ô tô, xe máy để hạn chế phương tiện gây ô nhiễm, trước hết là tại một số khu vực, tuyến đường, phố trọng điểm. Điều này cho thấy, chúng ta ngày càng quan tâm, khắt khe và quyết liệt hơn với những quy chuẩn về môi trường.
Điều mà nhiều chuyên gia quan tâm, góp ý là việc cần sớm xây dựng được các bộ quy chuẩn về các lĩnh vực môi trường, đặc biệt đối với vấn đề không khí. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Điều mà nhiều chuyên gia quan tâm, góp ý là việc cần sớm xây dựng được các bộ quy chuẩn về các lĩnh vực môi trường, đặc biệt đối với vấn đề không khí. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Vấn đề môi trường của Thủ đô nói riêng hay môi trường cả nước nói chung là một nhiệm vụ khó khăn, phải từng bước cải thiện, điều này cần sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cần sự phối hợp giữa Hà Nội và các vùng lân cận cũng như của các ngành với nhau. Thực tế, các nhà khoa học chỉ ra rằng, mặc dù trong thời gian qua, công tác môi trường liên tục được quan tâm, nhưng nguồn lực đầu tư vẫn còn hạn chế. Hy vọng, đây là dịp để đông đảo các nhà quản lý, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp đồng hành “hiến kế”, Thủ đô Hà Nội sẽ từng bước đổi thay, khoác lên mình một tấm áo xanh với một hơi thở trong lành, mạnh mẽ.
Ngày xuất bản: 16/3/2025
Thực hiện: LÊ ĐỨC
Ảnh: THÀNH ĐẠT, THẾ DƯƠNG
Trình bày: BẢO MINH
