Trong suốt 94 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo, uy tín của mình bằng bản lĩnh, trí tuệ và sự nêu gương về đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta lại đặt ra những yêu cầu riêng đối với năng lực, phẩm chất chính trị của người cán bộ, đảng viên. Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, những phẩm chất chính trị mới mang tính thời đại đang tiếp tục được Đảng ta xây dựng và củng cố.
Những phẩm chất cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới
Trải qua gần 40 năm đổi mới (1986-2024), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước thời kỳ đổi mới: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Trong đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Trung ương và cấp ủy các cấp đặc biệt coi trọng, triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt được nhiều kết quả rõ rệt. Tính đến ngày 31/12/2022, tổng số đảng viên toàn Đảng là 5.380.573; đến tháng 6/2023 là 5.420.161 người. Đa số cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với lý tưởng cách mạng, kiên trì phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có ý thức chính trị cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; có tinh thần yêu nước sâu sắc, luôn đặt lợi ích của Đảng, quốc gia-dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích của ngành, địa phương, cơ quan và cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị.
Có thể khẳng định, những đặc trưng riêng về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên được kết tinh từ đạo đức truyền thống ngàn đời của dân tộc kết hợp với những giá trị chuẩn mực được gây dựng, hình thành trong quá trình đấu tranh, gìn giữ độc lập dân tộc và tiếp nối, phát huy trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Dầu vậy, ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền và những đảng viên trở thành những cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, Đảng đã nhanh chóng nhận diện trong hoàn cảnh, điều kiện mới, cán bộ, đảng viên sẽ phải đối diện với những “viên đạn bọc đường” luôn làm xao động ý chí phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện của họ để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng hiện nay, cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất chính trị đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết.
Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu đối với phẩm chất cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia-dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết; có bản lĩnh, quyết tâm cao, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân; dám đi đầu, đổi mới, loại bỏ cái cũ, cái lạc hậu; khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; giải quyết những vấn đề sai sót tồn đọng, kéo dài hoặc đột phá đối với những vấn đề mới chưa có quy định hoặc quy định chồng chéo, thiếu thống nhất, khó thực hiện; có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn từng bộ, ban, ngành, địa phương. Trên cơ sở đó, bài viết đi sâu phân tích, làm rõ những phẩm chất chính trị của cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới.
Một là, bản lĩnh chính trị luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị là sự thể hiện “tính Đảng” của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm; là tinh thần và ý chí “phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, là đạo đức cách mạng, là tính Đảng, tính giai cấp, bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân”. Đề cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ không phải là vấn đề mới, nhưng là một yêu cầu cấp thiết và là một tiêu chuẩn đạo đức cần thiết của cán bộ trong tình hình hiện nay.
Đảng ta xác định, bản lĩnh chính trị luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu, là yếu tố cơ bản, căn cốt để bồi đắp, giữ vững và lan tỏa phẩm chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhờ có bản lĩnh chính trị, cán bộ, đảng viên mới kiên định được lập trường, giữ vững ý chí, khát vọng, khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Ngay từ Đại hội VIII, Đảng yêu cầu cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bên cạnh việc đáp ứng tiêu chuẩn chung còn phải “có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Đảng ta cũng sớm nhận định, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có nguyên nhân do bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài, sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất. Trong những nhiệm kỳ đại hội gần đây, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, ngay cả những cán bộ cấp cao của Đảng, do thiếu rèn luyện, không đủ bản lĩnh chính trị để vượt qua những cám dỗ vật chất, đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn vun vén lợi ích cá nhân, sa vào “lợi ích nhóm”, làm giàu bất chính. Điều đó làm suy giảm sức mạnh của tổ chức, làm tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng. Bên cạnh đó, bối cảnh tình hình thực tiễn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, cũng như tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi mới trong việc tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên.
Vậy nên, chuẩn mực đạo đức về bản lĩnh chính trị là yêu cầu bao trùm đối với cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Khái niệm bản lĩnh chính trị trong giai đoạn mới được mở rộng hơn. Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị sẽ không chỉ dừng lại ở việc thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng; suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng; nêu cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của Đảng; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; mà đảng viên “bản lĩnh” cũng phải là những người có “tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ý chí vươn lên, cống hiến”. Họ phải có tinh thần cởi mở, ham học hỏi, có đủ năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó và có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế khi đất nước đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bên cạnh sự kiên định về quan điểm, tư tưởng chính trị, mỗi cán bộ, đảng viên cũng cần phải có bản lĩnh vững vàng trước những diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường, đan xen thuận lợi, thời cơ, thách thức trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong việc sử dụng cán bộ thì cần phải có bản lĩnh “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”; “khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc”; “phải có gan cất nhắc cán bộ”. Người chỉ rõ: “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”.
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, nhấn mạnh: “Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)
Đại hội XIII của Đảng lần đầu tiên đề cập đến vấn đề đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của cán bộ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị cũng ban hành Kết luận số 14- KL/TW, ngày 22/9/2021, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Theo đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29/9/2023, “Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”; trong đó, quy định rất rõ về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nội dung, tiêu chí khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Nghị định số 73/2023/NĐ-CP quy định những hình thức bảo vệ khi cán bộ triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo và thực sự tạo nên động lực để cởi bỏ tâm lý sợ sai, ngại trách nhiệm, không dám làm của một số cán bộ hiện nay; đồng thời, là cơ sở để đấu tranh với tư tưởng sợ mất lòng, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không dám đối diện với những khó khăn, vướng mắc, không dám đấu tranh phê phán cái sai, cái xấu. Nghị định số 73/2023/NĐ-CP không chỉ “mở đường”, mà còn “cởi trói” cho cán bộ sáng tạo và cống hiến; bởi vì, khi con người thoát khỏi tư tưởng bó hẹp, được khuyến khích sáng tạo, thì tư duy, chất xám mới được phát huy.
Thực tiễn đã chỉ rõ, trước những khó khăn, thách thức, người cán bộ “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” chính là người có quyết tâm, có tầm nhìn, có suy nghĩ táo bạo, dám đưa ra quyết định đột phá, để không chỉ hoàn thành nhiệm vụ được giao, mà còn mang lại lợi ích to lớn cho dân tộc, cho nhân dân.
Cán bộ, đảng viên phải là những người trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm, tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình, không giấu khuyết điểm, không nói sai sự thật, mạnh dạn đưa ra quyết định trên cơ sở đã nắm chắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị, địa phương; mạnh dạn bỏ cách nghĩ, cách làm đã cũ, không còn phù hợp; dám đương đầu trực diện với khó khăn, thử thách; có lúc phải chấp nhận rủi ro trong công việc, “đứng mũi chịu sào”, không tranh công, đổ lỗi, dám nhận trách nhiệm về mình và chịu trách nhiệm đến cùng với công việc...
Tuy nhiên, khi công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng diễn ra quyết liệt, “không vùng cấm, không ngoại lệ” đã làm phát sinh căn bệnh “sợ trách nhiệm”, nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng mà không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, không dám đương đầu với khó khăn, thử thách của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong một cuộc khảo sát của Ban Tuyên giáo Trung ương được thực hiện vào tháng 4/2023, có trên 54% cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng, một trong những biểu hiện suy thoái đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên đang diễn ra đáng lo ngại, khiến họ rất lo lắng, bức xúc, đó chính là “sợ trách nhiệm, không dám làm, không dám đổi mới”. Thực tế hiện nay cho thấy, sợ trách nhiệm, không dám làm, không dám đổi mới đang là một “căn bệnh cấp tính” diễn ra ở các cấp, ngành. Căn bệnh này đã trói buộc tư duy đột phá, tầm nhìn đổi mới, sáng tạo, cống hiến vì địa phương, đơn vị, trở thành “vật cản” khiến nhiều cán bộ, đảng viên ngại đổi mới, ngại đưa ra quyết định để xây dựng, phát triển quê hương, đơn vị mình. Tâm lý đó còn lấn át cả những tố chất vốn có của người cán bộ, như sự tự tin, quyết đoán, muốn khám phá, thể hiện bản thân.
Trong bối cảnh hiện nay, khơi dậy, khuyến khích cán bộ, đảng viên phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, đặc biệt là tinh thần “7 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung) đã được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhân tố quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng trì trệ, lúng túng trong triển khai thực thi nhiệm vụ, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước.
Mỗi cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hy sinh vì lợi ích chung, khi được tập hợp, đoàn kết lại trong một tập thể thống nhất chắc chắn sẽ tạo ra sức mạnh to lớn, biến thách thức thành cơ hội, biến tiềm năng thành lợi thế cạnh tranh, tạo ra đột phá quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước.
Ba là, khát vọng dấn thân và cống hiến.
Từ “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” như “lời hịch” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để phát động một phong trào quần chúng rộng lớn, nhằm “kháng chiến và kiến quốc thành công”, đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, đến Đại hội XIII, lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Điều này thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng khi cụm từ “khát vọng” được xuất hiện từ trong chủ đề của Đại hội, quan điểm chỉ đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, đến quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược, đột phá chiến lược giai đoạn 2021 - 2030...
Để xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc, Đảng đã khơi dậy giấc mơ lớn “khát vọng phát triển đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu theo như đúng di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, với mục tiêu hướng tới “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải chủ động nâng cao kiến thức, kỹ năng, năng lực công tác để đáp ứng được khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; tích cực tham gia quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng theo đường lối đối ngoại của Đảng phù hợp luật pháp quốc tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng cộng đồng vì hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển.
Khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc được hình thành hoàn toàn có cơ sở khi “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa giấc mơ đó, đòi hỏi những yêu cầu cao hơn đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ năng lực, trình độ đến hoài bão, lý tưởng, ý chí phấn đấu, tinh thần dám xông pha, dám đổi mới, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Đó chính là phẩm chất với những tiêu chí riêng đặc biệt của thời kỳ mới đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tiến trình quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng cũng đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”. Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, việc tích cực, chủ động triển khai chủ trương hội nhập quốc tế theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đây cũng là một trong những phẩm chất cần có đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải chủ động nâng cao kiến thức, kỹ năng, năng lực công tác để đáp ứng được khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; tích cực tham gia quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng theo đường lối đối ngoại của Đảng phù hợp luật pháp quốc tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng cộng đồng vì hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển.
Bốn là, đề cao danh dự, lòng tự trọng.
Nói về lòng tự trọng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhắn nhủ: “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho có ý nghĩa, để không phải xót xa, ân hận vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ; tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!”.
Lòng tự trọng là luôn coi trọng, giữ gìn phẩm chất, tư cách, danh dự của bản thân mình. Lòng tự trọng của con người được hình thành từ sự tự giác, rèn luyện của bản thân trong quá trình sinh sống, học tập, lao động và công tác, thể hiện ý chí, trách nhiệm của mỗi người đối với chính bản thân mình.
Lòng tự trọng và danh dự chính là căn nguyên, cốt lõi giúp con người rèn luyện mình vươn tới cái đúng, cái tốt đẹp, cộng đồng những người có lòng tự trọng sẽ tạo thành sức mạnh nội sinh của một khối dân tộc thống nhất.
Ngay từ trước khi Đảng ta được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là yêu cầu nhất thiết phải có của người cách mạng; mà ở đó, chữ “liêm” chính là đại diện cho tự trọng và danh dự. Theo đó, chỉ có gương mẫu, trong sạch thì nhân dân mới tin yêu và làm theo cán bộ, đảng viên. Bởi vậy, đối với người cộng sản, lòng tự trọng và danh dự chính là “kim chỉ nam” để cán bộ dám đảm nhận nghĩa vụ, trọng trách, làm tròn sứ mệnh “đày tớ”, công bộc của nhân dân theo đúng nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, nhắc đến lòng tự trọng, danh dự là nhắc đến việc luôn tự phê bình và phê bình, không cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, không để bị tác động lôi kéo, cám dỗ; không để gia đình, người thân và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi... Điều này có nghĩa là lúc nào người cán bộ, đảng viên cũng phải tự soi xét mình, khi sai cũng cần mạnh dạn nhận lỗi để sửa sai.
Như trước đây, Đảng và Chính phủ đã mạnh dạn thừa nhận những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Nhà nước nhận lỗi trước nhân dân tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa I (29/12/1956 - 25/1/1957). Người bật khóc và tự phê bình một cách nghiêm túc: “Vì ta thiếu dân chủ nên nghe ít, thấy ít, nên bây giờ ta phải dân chủ. Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này. Tất cả Trung ương phải nghe, thấy, nghĩ và làm như thế. Bài học đau xót này sẽ thúc đẩy chúng ta”.
Một xã hội văn minh, tiến bộ và phát triển thì việc cán bộ từ chức khi tài, đức không xứng với vị trí, chức vụ, hạn chế về năng lực, không đủ uy tín để hoàn thành chức trách được giao là một xu hướng tất yếu nhằm sàng lọc cán bộ. Đó cũng chính là đạo đức, lòng tự trọng và danh dự của người cán bộ, đảng viên.
Ngoài ra, một trong những biểu hiện cụ thể của danh dự và lòng tự trọng chính là thực hiện văn hóa từ chức khi không đủ năng lực, uy tín. Trong lịch sử xây dựng Đảng, câu chuyện về từ chức không phải là hiếm. Có thời điểm người đứng đầu Đảng đã xin từ chức, như trường hợp Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng chí Hoàng Quốc Việt xin thôi Ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí Hồ Viết Thắng xin ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, mặc dù khái niệm “từ chức” được đề cập khá nhiều trên nghị trường của Quốc hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng và mới được bổ sung, đề cập trong một số văn bản của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, mỗi khi có cán bộ từ chức, dư luận lại lập tức xôn xao, bàn tán. Điều này chứng tỏ phần nào, việc từ chức của cán bộ có vẻ còn xa lạ, chưa được coi là điều hết sức bình thường trong công tác cán bộ.
Trong điều kiện Đảng ta đang đặt ra yêu cầu đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, văn hóa từ chức có ý nghĩa quan trọng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hành vi từ chức xuất phát từ chính đạo đức liêm chính, tự trọng, trọng danh dự, liêm sỉ của chính cán bộ. Chính vì vậy, cần phải biến văn hóa từ chức trở thành nét đẹp chính trị, là lương tri, trách nhiệm của người lãnh đạo, quản lý.
Có thể nói, một xã hội văn minh, tiến bộ và phát triển thì việc cán bộ từ chức khi tài, đức không xứng với vị trí, chức vụ, hạn chế về năng lực, không đủ uy tín để hoàn thành chức trách được giao là một xu hướng tất yếu nhằm sàng lọc cán bộ. Đó cũng chính là đạo đức, lòng tự trọng và danh dự của người cán bộ, đảng viên. Để văn hóa từ chức của cán bộ phổ biến trong hệ thống chính trị ở Việt Nam cần phải gắn văn hóa từ chức với trách nhiệm, đạo đức của cán bộ. Điều này thể hiện sự coi trọng, đặt lợi ích của tổ chức, của nhân dân, của đất nước lên trên hết, trước hết.
Năm là, tính tiền phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu đội ngũ đảng viên của Đảng không đi tiên phong, gương mẫu trong đạo đức và hành động cách mạng thì Đảng cũng chỉ còn là một tổ chức lạc hậu, nói suông và lừa phỉnh. Nói một cách giản dị dễ hiểu là “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu, tiên phong về lý luận và hành động thực tiễn.
Tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên phải được thể hiện mọi lúc, mọi nơi, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những phẩm chất đó không thể tự nhiên mà có, mà phải do chính người cán bộ, đảng viên tự ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình, thông qua quá trình phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện không ngừng. Cán bộ, đảng viên là người dẫn dắt quần chúng nhân dân, nhưng muốn quần chúng nhân dân làm theo thì bản thân phải là tấm gương, phải cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng nhân dân trong mọi việc. Nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên không chỉ dừng lại ở việc tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, mà còn phải tích cực vận động, thuyết phục gia đình, người thân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đối với người cán bộ, đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu là một yêu cầu khách quan, là thuộc tính cơ bản, xuất phát từ ý thức, trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”. Bởi vậy, thực tế đã chứng minh, sự thành công của Đảng và lòng tin của nhân dân vào Đảng phụ thuộc chủ yếu vào 2 yếu tố: khả năng tạo lập chủ trương, đường lối và mức độ tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”.
Trong điều kiện cách mạng hiện nay, tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên thể hiện ở những điều cơ bản sau:
1- Sự tiên phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
2- Dũng cảm kiên quyết, đấu tranh loại bỏ với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những biểu hiện tha hóa quyền lực chính trị. Đó là sự nêu gương về đạo đức, lối sống “nói đi đôi với làm”. Người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm nêu gương từ việc lớn đến việc nhỏ, trong cả lĩnh vực công tác và sinh hoạt đời thường. Tinh thần nêu gương còn phải gắn với kỷ luật, kỷ cương.
Vấn đề “nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương” không phải là vấn đề mới. Ngay trong Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930) đã quy định: “Bất cứ về vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành”. Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, ngày 26/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Quốc lệnh quy định về 10 điểm thưởng, 10 điểm phạt. Quốc lệnh khẳng định, giữ vững kỷ cương, kỷ luật là vấn đề trọng đại, liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề này được đặt lên một tầm cao mới với việc gắn chặt với kỷ luật phát ngôn, nói đi đôi với làm, cũng như tôn trọng, phục tùng sự phân công của Đảng, của tổ chức. Thời gian qua, việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện pháp luật và thực thi công vụ đã giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện đúng và tốt hơn chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới
Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên; đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện dưới nhiều hình thức; nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, kịp thời định hướng tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ngoài ra, việc học tập, tự học tập để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Cần thường xuyên trao đổi, thảo luận, tự phê bình và phê bình trong chi bộ, cơ quan, đơn vị.
Hai là, đổi mới công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đánh giá cán bộ. Có cơ chế hữu hiệu sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và sử dụng đối với người có năng lực nổi trội; tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số; tiếp tục hoàn thiện cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế; bảo vệ đối với những trường hợp nguy cơ rủi ro, sai sót từ sớm, ngay khi có kế hoạch, không để nhụt chí; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đối với các đồng chí là nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, bảo đảm lựa chọn ra được cấp ủy, nhất là người đứng đầu, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo vì sự nghiệp chung, có năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống trên từng lĩnh vực, địa bàn.
Ba là, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Ở bất cứ đâu, thời kỳ nào, cán bộ, đảng viên tự giác nêu gương, thực hành đạo đức, nói đi đôi với làm đều có ảnh hưởng sâu sắc trong Đảng và được cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập, làm theo. Mọi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, lấy đó là chuẩn mực đạo đức, phương châm hành động và thái độ ứng xử của mình. Đây phải được xác định là biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Có ý chí, nhận thức và hành vi đạo đức cách mạng đúng đắn, trong sáng. Phải thường xuyên tự soi, tự sửa, tự tu dưỡng, rèn luyện, và coi đây là việc làm thường xuyên, hằng ngày.
Bốn là, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Đó là quyết tâm chính trị của Đảng ta nhằm xây dựng và tổ chức thực hiện một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, ngăn chặn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực. Tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ để thể chế hóa chủ trương của Đảng, bảo đảm đồng bộ giữa quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.
Năm là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện cải cách chính sách tiền lương gắn với vị trí việc làm, hiệu quả và áp lực công việc góp phần từng bước bảo đảm và nâng cao đời sống của đội ngũ cán bộ trong khu vực nhà nước. Đây chính là động lực về vật chất giúp cán bộ, công chức, viên chức chuyên tâm cho công việc, khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, nâng cao động lực và hiệu quả làm việc, tinh thần cống hiến để họ không cần, không muốn phải tham ô, tham nhũng, trục lợi, tư lợi; tôn vinh, biểu dương, khen thưởng kịp thời và thích đáng đối với các cơ quan, tập thể, cán bộ, đảng viên, công chức quyết liệt trong thi hành công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, dám nói, dám nghĩ, dám làm, chủ động, sáng tạo; lấy đó làm căn cứ để đánh giá trước khi xếp loại, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch, điều động, luân chuyển theo hướng ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả cao; xét nâng ngạch công chức, nâng bậc lương trước thời hạn theo quy định của pháp luật đối với những đề xuất đổi mới, sáng tạo được đánh giá là hoàn thành.
Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức ngày 15/11/2024.