Về Sóc Trăng,
xem đua ghe Ngo,
vui hội Óoc Om Bóc
E-MAGAZINE I NHANDAN.VN

Cứ đến rằm tháng 10 âm lịch hằng năm, đồng bào Khmer Nam bộ nói chung và người dân Sóc Trăng nói riêng sẽ trở về đoàn tụ cùng gia đình, dưới ánh trăng vàng, bên bánh cốm dẹp, với câu hát Dù Kê, điệu múa Rom Vong và cùng chung vui Lễ hội Óoc Om Bóc-Đua nghe Ngo truyền thống.
Đồng bằng sông Cửu Long có hơn 1.230 lễ hội, trong đó lễ hội dân gian, truyền thống chiếm gần 70%. Các lễ hội thể hiện dấu ấn đặc sắc về văn hóa của các dân tộc thiểu số, trong đó Lễ hội Óoc Om Bóc của đồng bào Khmer Nam bộ là náo nhiệt và phong phú nhất.
Thời gian qua, nhằm chăm lo đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào Khmer Nam Bộ nói riêng, cùng với phát triển kinh tế, Ðảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa qua việc tổ chức các lễ hội truyền thống.
Lễ hội để chuộc tội và tạ ơn các vị thần

Cho đến nay, vẫn chưa thể xác định được nguồn gốc hình thành của lễ hội Óoc Om Bóc gắn với việc đua ghe Ngo của người Khmer, nhưng trong dân gian hiện lưu truyền rất nhiều truyền thuyết liên quan đến lễ hội này.
Theo quan niệm của người Khmer, Mặt Trăng được xem là vị thần của đất và nước, chúa tể của mùa màng, có chức năng điều phối sự vận hành của thời tiết, mùa vụ.
Người Khmer cho rằng, trong cuộc sống, con người luôn gây ra tội lỗi, xúc phạm đến đất và nước. Vì sự sinh tồn, vì lòng tham lam vị kỷ, con người thường xuyên làm vẩn đục, uế tạp nước và đất, có nghĩa con người đã xúc phạm tới thần linh.
Do vậy, hàng năm, người Khmer phải làm lễ để chuộc tội và tạ ơn đối với thần. Và lễ hội Cúng Trăng-Óoc Om Bóc, Thả hoa đăng, Thả đèn trời, đua ghe Ngo chính là hình thức mà người Khmer muốn bày tỏ lòng tri ân của mình đối với Thần Nước, Thần Đất, cầu xin sự “tha thứ” của các vị thần về những hành động của con người đã làm tổn hại đến đất, nước, đến môi trường xung quanh.
Về sự ra đời của lễ hội Óoc Om Bóc, dựa vào các câu chuyện trong kinh điển Phật giáo và truyện cổ tích Khmer, người ta lý giải rằng, lễ hội cúng trăng ra đời từ một câu chuyện về tiền kiếp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Chuẩn bị cho Lễ hội cúng trăng. (Ảnh: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng)
Chuẩn bị cho Lễ hội cúng trăng. (Ảnh: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng)
Đó là vào một đêm rằm trăng tròn, có một con thỏ phát nguyện tâm thiện muốn hiến thể xác của mình cho bất kỳ ai cần đến, để sớm được hóa kiếp khác. Lời nguyện đó ngay lập tức được vị thần Pres-anh đang ngự ở tầng trời nghe được. Ngài liền hạ giới, biến mình thành một cụ già, lom khom đến gần Thỏ xin được ăn thịt. Thỏ liền nhảy vào đống lửa tự thiêu mình, biến thành thức ăn cho cụ già (thần Pres-anh). Thế nhưng, khi đó, ngọn lửa không những không thiêu chết Thỏ mà còn tắt đi. Xúc động trước việc làm thiện tính đó, thần Pres-anh bồng lấy Thỏ, bay một mạch lên cung trăng và dùng phép màu vẽ hình Thỏ in vào Mặt Trăng mãi mãi về sau này để con người thấy mà noi gương. Và, cũng từ đó lễ hội cúng Trăng (Óoc Om Bóc) ra đời.
Đua ghe Ngo. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
Đua ghe Ngo. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
Về lễ hội đua ghe Ngo, có 3 truyền thuyết phổ biến nhất, đó là:
Thứ nhất, ngày xưa có công chúa Neng Chanh (Nàng Chanh) có tài sắc vẹn toàn được nhà vua rất yêu chuộng. Từ lòng ganh ghét ti tiện nên một tên quan đại thần đã vu cho nàng tội bỏ chất cáu bẩn ở móng tay vào nồi canh của vua. Biết mình không còn cách nào minh oan, Neng Chanh vội vã xuống thuyền xuôi theo sông Ba Sắc chạy trốn. Nhà vua cho quân lính đuổi theo hạ sát nàng. Biết không thể thoát thân, định mạng đã đến, nên Neng Chanh vội vã ném chiếc ống nhổ (người Khmer gọi là Kon thô) là kỷ vật được nhà vua ban tặng trước đó xuống vàm sông và nơi đó sau này người Khmer gọi là “Peam Kon thô” (Peam là vàm, Kon Thô là ống nhổ; người Việt gọi vàm Ống Nhổ - nay gọi vàm Dù Tho) và kết cục nàng bị vua xử trảm một cách thương tâm. Từ truyền thuyết đó, nên trong dân gian Khmer tương truyền: để tưởng nhớ Neng Chanh tài hoa bạc mệnh, hàng năm cư dân Khmer quanh vùng tổ chức đua ghe Ngo để diễn lại cảnh Neng Chanh chạy trốn khỏi hoàng cung đến vùng đất Ba sắc - nay là Sóc Trăng.
Thứ hai, tục đua ghe Ngo theo dân gian tương truyền thì xuất phát từ đặc điểm cuộc sống của cộng đồng cư dân lúc bấy giờ ở vùng sông nước cho nên khởi đầu họ đã làm nên chiếc ghe độc mộc dùng để làm phương tiện đi lại, đồng thời chiếc ghe Ngo cũng là vật linh thiên dùng để đưa nước từ ruộng đồng ra biển cả, đánh dấu sự kết thúc của một năm đồng áng. Những cuộc mưu sinh để chống chọi với thiên nhiên và đàn thú dữ thường được tổ chức đi thành từng đoàn, do đó chiếc ghe độc mộc lúc bấy giờ có phần bất tiện, không khả năng đáp ứng được sức tải nhiều người theo yêu cầu, nên họ phải đóng chiếc ghe dài ra để chở được nhiều người, phục vụ cho cuộc sống mưu sinh của cộng đồng.
Thứ ba, có thuyền thuyết cho rằng tục đua ghe Ngo của đồng bào Khmer là nhằm ôn lại kỳ tích của lực lượng chủ lực hải quân và chiếc thuyền chiến (ghe Ngo). Theo cuốn sách “Nguồn gốc lễ hội đua ghe Ngo, thả đèn nước và cúng trăng” của nhà sư Thạch Sô Tưm xuất bản năm 2009 bằng tiếng Khmer, lễ hội đua ghe Ngo đã có từ lâu và trở thành một tập tục của những cư dân ở xứ sở Ba Sắc xưa (nay là Sóc Trăng) vào khoảng năm 2071 tính theo Phật lịch và năm 1528 tính theo Dương lịch.
Lễ cúng Trăng (Oóc om bóc)

Lễ cúng Trăng (Oóc om bóc) hay lễ "Đút cốm dẹp" (Bon sâm peah preah khe) diễn ra vào đêm trước rằm tháng “Ka-đâk” (ứng với ngày 15 tháng Mười Âm lịch), cũng là ngày cuối cùng của mùa Hạ và là thời gian thu hoạch các loại hoa màu, trong đó có lúa nếp là sớm nhất.
Để nhớ ơn Mặt Trăng, người Khmer lấy lúa nếp giã thành cốm dẹp với các hoa màu khác để cúng trăng. Đúng đêm cúng, trước khi trăng lên tới đỉnh đầu, từng gia đình người Khmer thường tề tựu trước sân nhà hoặc tập trung tại khuôn viên chùa, hay nhiều gia đình cùng mang lễ vật đến một nơi rộng rãi trong phum sóc, không có bóng cây che khuất để làm lễ cúng trăng.
Trước hết, đồng bào Khmer cắm hai cây trúc hoặc tre xuống đất để làm thành một cái cổng, rồi trang trí thêm hoa lá cho sinh động.
Tại một số địa phương khác ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trên cổng người dân còn giăng một dây trầu gồm 12 lá trầu đã được cuốn tròn, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm, một dây cau gồm bảy trái được chẻ vỏ ra như cánh con ong, tượng trưng cho bảy ngày trong tuần. Hoặc, người ta cắt nhiều lá chuối, mỗi lá chuối trải ra có gắn 12 ngọn nến, khi cử hành nghi lễ, người ta thắp lên và sau đó lấy lá chuối ngửa lên Mặt Trăng để xem hình dạng các hình thù từ nến rơi xuống lá chuối mà đoán sự tốt lành, hay xấu trong năm tới.
Đồng bào Khmer chuẩn bị lễ vật cho lễ cúng Trăng Oóc om bóc. (Ảnh: dangcongsan.vn)
Đồng bào Khmer chuẩn bị lễ vật cho lễ cúng Trăng Oóc om bóc. (Ảnh: dangcongsan.vn)
Dưới cổng, người dân Khmer đặt một chiếc bàn, rồi bày các vật cúng gồm: nhang đèn, cốm dẹp và các hoa màu nông sản khác như dừa tươi, chuối, khoai lang, khoai mì, khoai môn đã luộc chín hoặc chế biến thành chè…
*Cốm dẹp: là lễ vật đặc biệt không thể thiếu, được chế biến từ lúa nếp, tượng trưng cho lòng hiếu thảo, tạ ơn hạt thóc đã nuôi sống con người.
*Trái dừa: quả tròn giống như hình mặt trăng, vạt bỏ phần nhọn, thể hiện hương vị ngọt ngào, là sản phẩm quan trọng trong đời sống đồng bào dân tộc Khmer.
*Cây mía: có hương vị ngọt, thẳng lóng, thể hiện ý chí vươn lên mạnh mẽ.
*Khoai mài và khoai lùn: hai nông sản đặc trưng của đồng bào dân tộc Khmer và cũng là một trong những lễ vật không thể thiếu trong lễ cúng Trăng.
Sau đó, tất cả các thành viên trong gia đình ra ngồi trên một chiếc chiếu được trải trước bàn lễ vật, chắp tay trước ngực, quay mặt về Mặt Trăng để cử hành nghi lễ. Riêng tại các ngôi chùa thì bà con thỉnh các vị sư ngồi trước bàn lễ vật tụng kinh chúc phúc.
... Và đến khi Mặt Trăng lên cao tỏa sáng, người ta lại đốt nhang, nến, rót trà và mời một người lớn tuổi đứng ra làm chủ lễ (hoặc là các vị A-cha). Chủ lễ sẽ khấn vái, với nội dung chủ yếu bày tỏ lòng biết ơn của con người đối với Mặt Trăng, xin Mặt Trăng (cũng có nghĩa xin thần linh) tiếp nhận lễ vật và ban phúc cho mọi người được sức khỏe dồi dào, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đạt nhiều thành quả trong lao động của năm tiếp theo.
Khấn vái đủ ba lần, chủ lễ sẽ gọi các em nhỏ đến gần, ngồi (hoặc đứng) chắp tay, hướng về Mặt Trăng, rồi lấy cốm dẹp, cùng các thứ vật cúng khác mỗi thứ một ít đút vào miệng các em; còn tay kia thì vỗ nhẹ vào lưng hỏi han các em về ước muốn, hoài bão trong cuộc sống.
Sau đó mọi người quây quần lại dùng các thức cúng để hưởng phước, còn các em nhỏ thì vui chơi, múa hát, có khi kéo dài đến hết đêm.
Tái hiện nghi thức cúng trăng, đút cốm dẹp của đồng bào Khmer trong lễ cúng trăng. (Ảnh: TTXVN)
Tái hiện nghi thức cúng trăng, đút cốm dẹp của đồng bào Khmer trong lễ cúng trăng. (Ảnh: TTXVN)



Lễ hội đua ghe Ngo - Ngày hội thắm tình đoàn kết

Ngày 15 tháng 10 Âm lịch là ngày mà người dân Khmer háo hức chờ đợi nhất để tham gia Lễ hội đua ghe Ngo truyền thống.
"Tuk Ngô" (ghe Ngo) có kết cấu khởi thủy là thuyền độc mộc, làm bằng cây sao. Xưa người dân vào rừng tìm gỗ sao, làm lễ cúng Thần giữ rừng (Neak ta Prey ph'nôm) để được bình an vô sự rồi mới đốn cây. Họ phải dùng sức trâu hoặc voi kéo cây xuống sông, kết thành bè rồi thả theo dòng nước. Cây sao đem về phải cưa, đục, đẽo, khoét thành chiếc ghe độc mộc. Sau này, ghe được cải tiến nối thêm đầu và đuôi đều cong, người Khmer gọi là Tuk Ngô (Tuk là ghe, Ngô là cong - đọc thành Ngo).
Những năm gần đây, người thợ đã không ngừng cải tiến kỹ thuật đóng ghe để chiếc ghe Ngo lướt nhanh nhất có thể. Ghe Ngo được đóng dài hơn, từ 30-31m, có sức chứa từ 55-60 người, thay vì chỉ từ 22-27m như trước đây.
Đua ghe Ngo Sóc Trăng. (Ảnh: VGP)
Đua ghe Ngo Sóc Trăng. (Ảnh: VGP)
Ghe ngo ở chùa Dơi (thành phố Sóc Trăng). (Ảnh: TTXVN)
Ghe ngo ở chùa Dơi (thành phố Sóc Trăng). (Ảnh: TTXVN)
Ghe ngo là sản vật văn hóa, tinh thần, có giá trị to lớn đối với đồng bào Khmer và được cất giữ ở những ngôi chùa Khmer Nam bộ. (Ảnh: Bộ Thông tin và Truyền thông)
Ghe ngo là sản vật văn hóa, tinh thần, có giá trị to lớn đối với đồng bào Khmer và được cất giữ ở những ngôi chùa Khmer Nam bộ. (Ảnh: Bộ Thông tin và Truyền thông)
Ghe Ngo có hình thù tựa con rắn Naga, mình thon, thoai thoải về phía trước, đầu uốn cong và hơi thấp hơn sau lái một chút, có nhiều khoang, trên mỗi khoang đóng nhiều thanh cây ngang dài 1,2m làm băng vừa đủ 2 người ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song song gồm 25 đôi.
Ghe Ngo có dầm riêng, làm theo nhiều kích cỡ tùy theo từng vị trí người bơi. Đặc biệt, nghe Ngo có hai cây kềm chịu lực, đường kính 0,2m, thường là thân cây tràm vì cây này có độ dẻo, giúp cho ghe nhún nhảy và phóng nhanh, đồng thời giúp giữ chặt ghe không bị gãy đôi. Một cây kềm dài suốt lòng ghe, một cây kềm lái (từ giữa thân ghe về phía sau), gọi là Đon Sonh-Tuôch (cây cần câu).
Thân ghe được chà đi chà lại cho thật trơn bóng và sơn màu đen. Trên be sơn một lằn trắng, đỏ hoặc vàng tùy ý thích của sư cả trụ trì, có độ dài khoảng 5cm. Hai bên be chạm trổ hoặc vảy rồng, rắn theo mô típ Naga hay hoa lá cách điệu. Ở hai bên mũi ghe vẽ hình các con thú như: rồng, chim công, sư tử, cọp, voi... vừa tượng trưng cho vẻ đẹp, đồng thời biểu hiện cho sức mạnh của ghe.
Ngày nay, những thân cây sao bằng 2 người ôm hầu như không còn nữa nên ghe Ngo hiện đại được đóng bằng ván cây sao. Có lẽ do kết cấu của ghe ngày nay mỏng và nhẹ hơn ghe truyền thống nên lướt nhanh hơn.
Ghe Ngo được bảo quản trong nhà để ghe dựng trong khuôn viên chùa. Mái che, dàn đà cao chắc chắn để che mưa nắng, phòng mối mọt. Nhà ghe là nơi thiêng liêng, ngày xưa phụ nữ không được đến gần. Tuy nhiên, những những năm gần đây, cuộc đua đã có các đội ghe nữ tham gia tranh tài.
Người Khmer tin rằng, ghe Ngo là vật thiêng, làm việc gì với ghe Ngo cũng phải làm lễ. Để chuẩn bị cho cuộc đua, phải làm lễ hạ thuỷ để kêu gọi Thần linh (Prey) trợ giúp đội ghe thắng lợi. Buổi lễ có sự tham gia của các tay đua và cổ động viên trong phum sóc.

Lễ hạ thủy
Tùy điều kiện mỗi chùa mà lễ hạ thủy có cách thức tiến hành khác nhau, nhưng nhìn chung diễn ra theo trình tự sau:
Người dân trong phum sóc tập trung về chùa cùng chuẩn bị lễ vật dâng cúng. Lễ vật được bày cúng trên một chiếc bàn rộng trước mũi ghe Ngo. Thầy cúng làm lễ cùng với tiếng nhạc ngũ âm tấu khúc mời gọi vị Thần bảo vệ ghe Ngo là nữ thần Neng Khmau hay Neng Teo.
Nhạc kết thúc, các vị sư đứng ở hai bên phần mũi ghe đọc kinh để cầu bình an, may mắn, thỉnh thoảng vẩy nước vào mũi ghe cầu may mắn, thuận lợi… Tiếp theo, thầy cúng quỳ lạy, cúng dâng lễ vật xin hạ thủy ghe Ngo, cầu xin sức mạnh, chiến thắng mọi địch thủ.
Thầy cúng thoa dầu dừa lên mũi ghe và chia cho các tay đua thoa lên đầu. Các tay đua cùng thề nguyện đoàn kết, giành thắng lợi.
Trống, còi nổi lên, các tay đua đứng hai bên ghe cùng nhấc bổng ghe lên và từ từ ra bờ sông, hạ xuống nước.
Sau lễ cúng, miếng vải đỏ tượng trưng cho nữ thần Neng Khmau được đặt lên mũi ghe trong suốt cuộc đua. Các tay đua lên ghe theo vị trí đã được sắp xếp rồi đồng loạt vung tay chèo theo tiếng còi của huấn luyện viên. Chiếc ghe xé nước lao đi vun vút trong tiếng hò reo của những người theo dõi.
Thông thường, lễ hạ thủy sẽ diễn ra trước cuộc đua chính thức khoảng một tuần. Thời gian đó, đội đua thường xuyên tập luyện trên ghe để bảo đảm sự dẻo dai, đều tay, bền bỉ và quan sát, điều chỉnh hai cây kềm trên ghe sao cho ghe phóng đi một cách nhanh nhất.
Trước ngày đua…
Trước hội thi, các đội thường tập dựa vào con nước vì nước ròng (kém) không tập được. Thời gian tập chủ yếu là sáng sớm và chiều mát để các tay đua không bị mất sức. Tuy nhiên, người ta còn chọn những buổi trưa nắng để tập nhằm nâng cao sức chịu đựng khi vào đua chính thức bởi khi đua có lúc đua từ sáng đến chiều, đòi hỏi sự bền bỉ về thể lực của các tay đua. Trên bờ, người dân ra bờ sông cổ vũ các tay đua của phum, sóc mình luyện tập rất đông.
Đội đua ghe thường có 70-80 người gồm tay bơi chính thức và dự bị, là những trai tráng khỏe mạnh được cộng đồng lựa chọn. Trên ghe Ngo có 3 người điều khiển. Người ngồi ở vị trí mũi ghe phải là người khá giả, có uy tín trong phum sóc.
Khi được lựa chọn, người ngồi mũi là người chịu trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật bơi của toàn đội, chỉ đạo các nghi lễ liên quan tới hoạt động đua ghe, chỉ đạo chuẩn bị lễ cúng, nuôi các tay bơi (“con dầm”) ăn, tập luyện và lo các chi phí khác cho cuộc đua (ngày nay, chi phí cho cuộc đua một phần được chính quyền địa phương hỗ trợ, một phần do nhà chùa quyên góp từ cộng đồng cư dân, tuy nhiên ở một số phum sóc vẫn còn giữ lệ này).
Người thứ hai chịu trách nhiệm điều khiển chung bằng cách ra hiệu lệnh bằng còi hoặc cồng, đặc biệt là thúc giục nhóm tay bơi khu vực giữa ghe, được gọi là blong kchay. Người ngồi đuôi giữ nhiệm vụ điều chỉnh kỹ thuật của các tay bơi, còn gọi là chỉ huy dàn lái (sayak).
Sau người ngồi mũi là cặp “con dầm” được gọi là “s’ma tưm”. Cặp này phải có kỹ thuật bơi thật nhanh, theo đúng nhịp cồng hoặc còi để làm chuẩn mực cho các tay bơi ngồi phía sau. Tiếp theo là “kôn chro va” gồm 6 người ngồi bơi; rồi đến “kô lich” là 28 người quỳ bơi, khi ghe gần đến đích, 28 người này đồng loạt đứng lên, một chân làm trụ, một chân dồn lực đẩy hợp cùng cánh tay bơi dầm nhằm làm cho ghe lao nhanh về đích; sau đó là 8 “sroong dôn” làm nhiệm vụ nhún bơi. Cuối cùng là 3 tay lái: lái chính đứng sau cùng, 2 lái phụ đứng song song phía trước lái chính.
Vì chiếc ghe Ngo có hình dáng thon dài như thân hình rắn, hai đầu cong lên, nên khi bơi, trông chiếc ghe như một con rắn đang trườn mình trên mặt nước, rất sinh động. Nhưng nếu động tác của đội bơi phối hợp không nhịp nhàng, ghe dễ bị mất thằng bằng và lật chìm. Vì thế, các tay bơi phải ra sức tập cho thuần thục, theo đúng vị trí của mình.
Trước khi đi đua, các đội bơi đều phải tập bơi trên cạn hàng tháng trời. Thông thường, điểm tập bơi là trước sân chùa. Các tay bơi được sắp xếp theo vị trí của mình trên ghe và tập theo tiếng cồng hay còi của huấn luyện viên cho thật nhịp nhàng, ăn ý.
Theo kinh nghiệm của những đội đua đã từng dành chức vô địch, để ghe lao đi thật nhanh, ngoài kỹ thuật đóng ghe, đòi hỏi các tay chèo phải có sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác từ người ngồi đầu mũi cho đến người lái cuối ghe, tất cả đều như một theo hiệu lệnh bằng còi của người giữ nhịp đứng giữa ghe (người này được xem là “nhạc trưởng” của đội, chỉ huy các tay chèo gia tăng nhịp chèo, tốc độ chèo hay chèo đều tay giữ sức cho trận tiếp theo). Có thể nói, đây là kỹ thuật rất quan trọng quyết định thắng hay bại của cả cuộc đua.
Sáng sớm trước ngày đua, các đội đua làm lễ xuất quân. Địa điểm làm lễ xuất quân thường diễn ra ở chùa, ở đoạn sông hay kênh nằm ở trung tâm của phum, sóc. Trong ngày này có đầy đủ chính quyền, sư sãi chùa, chức sắc, các trưởng lão và hầu hết bà con trong phum, sóc. Thường ghe đua được bơi biểu diễn một đoạn ngắn để tạo khí thế lấy đà. Sau đó, ghe đua được một chiếc ghe máy có mã lực mạnh kéo; đi cùng là một chiếc ghe cà hâu (làm nhiệm vụ hậu cần), có cả nơi nghỉ ngơi cho đoàn đua, chở theo dàn trống, dàn nhạc ngũ âm với trên dưới 100 người tham gia, chưa tính cổ động viên tự đi.
Vào cuộc đua
Các đội đua đã được bốc thăm chia bảng từ trước. Đến giờ đua, tất cả các đội ghe tham gia đều tập trung tại khán đài để nhận lịch đua. Đường đua là một đoạn sông từ sông Maspéro (trên đường Lý Thường Kiệt) đến sông Xung Đinh, mặt sông được chia làm hai bằng cách cắm phao cờ ở giữa.
Các ghe phải bơi đúng đường đua của mình và cách nhau ít nhất 5m, tuyệt đối không để mái chèo chạm nhau, không nắm, kéo mái chèo hoặc mạn ghe đội bạn. Trong suốt cuộc đua, người bơi không được tát nước sang ghe đội bạn, không có những lời nói, hành động thiếu văn hóa với đội bạn. Nếu trọng tài phát hiện đội ghe nào vi phạm, Ban Tổ chức sẽ xem xét cảnh cáo hoặc truất quyền thi đấu.
Hội đua ghe tổ chức theo từng đợt một trong 2 ngày, từ vòng loại đến chung kết. Mỗi đợt đua là một cặp ghe theo bảng đã được chia. Cuộc đua chịu sự chi phối của thời gian con nước lên, tức khoảng từ 13h00 trở đi. Nếu có đua buổi sáng, thì phải bắt đầu từ 7h30.
Các ghe vào vị trí xuất phát theo thứ tự đã bốc thăm. Theo quy định của Ban Tổ chức, ghe nam xuất phát bằng cách nắm dây cố định để so mũi ghe bằng nhau, mái chèo đưa lên khỏi mặt nước.
Còn ghe nữ xuất phát bằng cách gióng hàng so mũi ghe bằng nhau. Nếu có ghe phạm quy (mũi ghe cao hơn dây xuất phát, mái chèo không đưa lên khỏi mặt nước theo quy định hoặc xuất phát trước khi có khẩu lệnh...), trọng tài sẽ nổi hồi còi, thông báo tạm ngưng đợt đua, nhắc nhở ghe vi phạm và hướng dẫn ghe trở lại vị trí xuất phát. Ghe nào vi phạm trong lần xuất phát thứ 2 sẽ bị xử thua ở lượt đua đó. Chỉ khi nào có lệnh xuất phát từ trọng tài, các đội ghe mới được phép bơi.
Vào cuộc đua, từng đợt ghe một có thể là một đôi ghe hoặc ba ghe cùng tiến về phía trước ào ào lướt sóng. Tiếng hò reo, cổ vũ, tiếng trống, tiếng kèn, dàn nhạc ngũ âm vang lên làm cho các tay đua không biết mệt mỏi.
Sau khi loại từng đối thủ, để vào chung kết, đội đua cần phải có các tay đua không chỉ mạnh mà còn bền, kèm theo người chỉ huy giỏi và công việc hậu cần tốt.
Kết thúc cuộc đua, ghe chiến thắng được trao giải trước tiếng vỗ tay của rừng người. Đặc biệt, họ không quan trọng quá phần thưởng và đội nào thắng cuộc mà tất cả đều vui vẻ, hẹn gặp lại cuộc đua năm sau.
Kết thúc cuộc đua, tất cả các đội ra về cùng ghe máy hộ tống cổ vũ. Những ghe đi chung đoạn đường sông thì cùng kết thành một đội, cùng vui liên hoan, ca múa trên chiếc ghe cà hâu (ghe hậu cần).
Các đội ghe Ngo tập trung làm lễ khai mạc giải đua. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
Các đội ghe Ngo tập trung làm lễ khai mạc giải đua. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
Người hâm mộ đứng kín 2 bờ sông để cổ vũ. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
Người hâm mộ đứng kín 2 bờ sông để cổ vũ. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
2 đội ghe Ngo đang bơi nước rút để về đích. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
2 đội ghe Ngo đang bơi nước rút để về đích. (Ảnh: NGUYỄN PHONG)
Đua ghe Ngo mừng lễ hội Óoc Om Bóc. (Ảnh: TTXVN)
Đua ghe Ngo mừng lễ hội Óoc Om Bóc. (Ảnh: TTXVN)
Trong lễ hội Oóc om bóc, ngoài nghi lễ cúng trăng, đua ghe Ngo, người Khmer còn thực hành các hoạt động thả đèn gió, thả đèn nước, cờ ốc, bi sắt, múa rom vông, rong leo…, thu hút đông đảo người dân Khmer và cả người Kinh, người Hoa cùng tham dự.
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng Trần Minh Lý cho biết: "Lễ cúng trăng và thả đèn nước trong khuôn khổ lễ hội Oóc om bóc-Ðua ghe ngo Sóc Trăng lần thứ 6, khu vực đồng bằng sông Cửu Long năm 2024 không chỉ nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống, giàu tính nhân văn của đồng bào Khmer mà còn là một sản phẩm du lịch hấp dẫn để thu hút du khách đến với Sóc Trăng. Ngoài ra, nghi lễ này có ý nghĩa giáo dục thế hệ trẻ sống nghĩa tình, phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc, khơi dậy niềm tự hào, tình yêu quê hương, ý thức trách nhiệm của mọi người trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
Lễ hội Óoc Om Bóc-Đua ghe Ngo gắn liền với sự hình thành và phát triển của tộc người Khmer, đáp ứng nhu cầu về mặt tinh thần của mỗi thành viên trong cộng đồng. Hình thức tổ chức lễ hội phản ánh tự nhiên, vũ trụ, con người và vạn vật cũng như văn hóa tộc người...
Lễ hội không những góp phần giáo dục con người về tính tập thể, tinh thần kỷ luật, ý chí vươn lên dành chiến thắng, mà còn giúp rèn luyện thể chất, sức mạnh dẻo dai, sự khôn khéo và sức chịu đựng của con người. Hội đua ghe Ngo còn thể hiện được tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết tạo thành một sức mạnh vô song, thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Từ năm 2013, Thủ tướng Chính phủ cho phép Sóc Trăng đứng ra tổ chức “Festival Đua ghe Ngo đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long-tỉnh Sóc Trăng lần thứ nhất năm 2013”. Từ đó cho đến nay, cuộc đua được tổ chức ngày càng quy mô theo hướng văn minh, đoàn kết, an toàn vì mục tiêu nâng cao mức hưởng thụ về đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc nói riêng và nhân dân trong tỉnh, trong khu vực nói chung.
Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội Đua ghe Ngo của người Khmer được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 74/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022, đồng thời, được Tổ chức Guinness Việt Nam công nhận Kỷ lục là môn thể thao “nơi có số lượng ghe Ngo và vận động viên nhiều nhất Việt Nam từ năm 2005 đến nay”.
Đồng chí Lâm Văn Mẫn - Ủy viên Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng cho biết, Lễ hội Ok Om Bok-Ðua ghe Ngo luôn được Trung ương và tỉnh tổ chức, duy trì hằng năm nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer Sóc Trăng nói riêng và của đồng bào Khmer ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Qua đó, thể hiện sự quan tâm, chăm lo của các cấp, các ngành đối với đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer; là dịp để đồng bào trình diễn, giao lưu các tiết mục văn hóa, văn nghệ đặc sắc, độc đáo của các nghệ sĩ, nghệ nhân cùng cuộc đua ghe Ngo truyền thống hào hứng với tinh thần thể thao thượng võ.
Giải Đua ghe Ngo Sóc Trăng năm nay có 60 đội thi với gần 7.200 vận động viên, huấn luyện viên và nhân viên phục vụ cùng tham gia. Đây là hoạt động chính trong chuỗi 11 hoạt động của Lễ hội Oóc Om Bóc-Đua ghe Ngo tỉnh Sóc Trăng, khu vực đồng bằng sông Cửu Long lần thứ VI và Tuần Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng lần thứ I năm 2024.

Ngày xuất bản: 20/11/2024
Tổ chức sản xuất: ĐÔNG MINH
Ảnh, nội dung và trình bày: NGUYỄN PHONG, BIỆN DIỆU
Tư liệu tham khảo: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng
Trở về nhandan.vn