Từ nghị quyết đến quyết tâm hành động

Cầu vượt vòng xuyến 2 tầng giữa quốc lộ 1A và đường sắt bắc-nam có đường trục chính từ cảng Chu Lai đến đường cao tốc Ðà Nẵng-Quảng Ngãi.

Cầu vượt vòng xuyến 2 tầng giữa quốc lộ 1A và đường sắt bắc-nam có đường trục chính từ cảng Chu Lai đến đường cao tốc Ðà Nẵng-Quảng Ngãi.

Trong hơn 10 năm trở lại đây, Ðảng ta đã có hàng loạt Nghị quyết quan trọng về phát triển đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 về "Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế"; Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 về "Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước"; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"... Ðể làm rõ hơn về quá trình đưa các Nghị quyết này vào đời sống, Báo Nhân Dân xin giới thiệu một số ý kiến từ các đồng chí lãnh đạo và chính những người trong cuộc về vấn đề này.

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bộ trưởng Tài chính Hồ Ðức Phớc

Triển khai thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 và góp phần định hướng cho doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển của đất nước, công tác xây dựng cơ chế, chính sách tài chính đã hướng tới việc tạo môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho doanh nhân, doanh nghiệp; bảo đảm quyền lợi đầu tư của doanh nhân, doanh nghiệp và quyền được bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển...

Cụ thể: Giai đoạn 2011-2020, Bộ Tài chính đã xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành 21 Luật, 13 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 258 Nghị định, 151 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và ban hành theo thẩm quyền 1.899 Thông tư, Thông tư liên tịch trên tất cả các lĩnh vực của ngành tài chính. Những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, doanh nhân như thuế, hải quan, thị trường vốn..., việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách đã chú trọng tiếp cận theo các thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập, tăng cường cải cách hành chính, trong đó tập trung đẩy mạnh triển khai cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, thủ tục gia nhập thị trường.

Các chính sách này cùng với những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp... đã góp phần tháo gỡ khó khăn và tạo thuận lợi cho doanh nhân, doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo để khai thác và sử dụng các nguồn lực hiệu quả, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và điều này được thể hiện rõ trong bối cảnh đại dịch Covid-19 thời gian qua. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã thường xuyên thực hiện tham vấn, đối thoại và tiếp thu ý kiến của doanh nhân, doanh nghiệp trong công tác cải cách thủ tục hành chính, công tác xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính...

Việc tổ chức triển khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành luôn có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban Cán sự đảng Bộ Tài chính. Trong đó có một số nhiệm vụ lớn mang tính định hướng như:

  • Chiến lược tài chính đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 450/QÐ-TTg ngày 18/4/2012 đã nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp là nền tảng và định hướng trong việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược phát triển các ngành (thuế, hải quan, kế toán kiểm toán, chứng khoán, kho bạc,...). Qua đó, hoàn thiện thể chế tài chính-ngân sách, khơi dậy và huy động đồng bộ nguồn lực từ các khu vực của nền kinh tế (khu vực nhà nước, khu vực tư nhân, khu vực dân doanh, khu vực đầu tư nước ngoài), đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, góp phần nâng cao sức sản xuất của doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
  • Ðẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong ngành tài chính và tích cực triển khai thực hiện tài chính số Chính phủ điện tử.
  • Ðiều hành quản lý chính sách tài khóa và phục vụ người dân và doanh nghiệp phát triển. Huy động phân bổ nguồn lực nhằm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp kinh phí phát triển.
  • Tháo gỡ khó khăn vướng mắc, quản lý giá và thị trường vốn nhằm phát triển doanh nghiệp.

Quán triệt sâu sắc tinh thần của Nghị quyết 09-NQ/TW, giai đoạn tới, Ban Cán sự đảng Bộ Tài chính tiếp tục chủ động tham gia nghiên cứu xây dựng và triển khai các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, thực hiện các giải pháp và phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được Ðảng và Chính phủ giao, góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam lớn mạnh, đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế.

Nhiều chính sách hỗ trợ đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nhân, doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch Covid-19. (Ảnh: QUÝ HIỀN)

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư Nguyễn Chí Dũng

Nhìn lại 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, có thể khẳng định đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, hoàn thành phần lớn mục tiêu Nghị quyết đề ra, thật sự trở thành một trong các động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Ðội ngũ doanh nhân Việt Nam từng bước khẳng định vai trò, vị thế không chỉ trong nước mà còn vươn ra thị trường thế giới.

Trong thời gian tới, doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và không ít thách thức. Việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho doanh nghiệp, doanh nhân cần được thực hiện trên quan điểm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp phát triển, coi việc tháo gỡ các rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Theo đó, cần tập trung tháo gỡ những vấn đề cấp bách của doanh nghiệp để khơi thông các điểm nghẽn, tạo đà phục hồi nhanh và phát triển bền vững.

Cụ thể là:

  • Tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thực chất thủ tục hành chính; tiếp tục hỗ trợ giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước.
  • Ðẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục đứt gãy nguồn cung, đa dạng hóa đối tác, nhà cung cấp nguyên, nhiên, phụ liệu, linh kiện đầu vào đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
  • Chủ động xây dựng chính sách và chuẩn bị các nguồn lực, giải pháp dài hạn hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng các biến động tương lai, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, đón đầu các xu hướng kinh doanh mới, xu hướng thị trường mới…

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ảnh minh họa: TRẦN HẢI

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ảnh minh họa: TRẦN HẢI

Việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho doanh nghiệp, doanh nhân cần được thực hiện trên quan điểm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp phát triển, coi việc tháo gỡ các rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị hàng đầu.
Bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư Nguyễn Chí Dũng

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên

Trong hơn 10 năm qua, Bộ Công thương đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành 15 dự án Luật, 90 Nghị định và hơn 800 Thông tư; đã tiến hành đơn giản hóa 72,37% điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước, cắt giảm 76,5% số mặt hàng thuộc danh mục các mặt hàng thực hiện kiểm tra chuyên ngành thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ; đưa tất cả 302 thủ tục hành chính cấp Trung ương thuộc phạm vi quản lý thành dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 trở lên và 236 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4, giúp giảm thời gian, chi phí đi lại và tăng tính công khai, minh bạch cho doanh nghiệp.

Bên cạnh việc luôn chủ động xây dựng và tham mưu cho Chính phủ ban hành hàng loạt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường trong nước, Bộ cũng đã tích cực đàm phán, ký kết và đưa vào thực thi 15 Hiệp định thương mại tự do, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác, thâm nhập vào thị trường quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu.

Công tác bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch cho doanh nghiệp cũng được đặc biệt chú trọng với việc đã thành lập Cục Phòng vệ thương mại, nâng cấp Tổng cục Quản lý thị trường và sắp tới đây là Ủy ban Cạnh tranh quốc gia,... có đóng góp quan trọng cho việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh, từ đó tạo điều kiện để các ngành sản xuất, các doanh nghiệp phát triển, tạo thêm việc làm và đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Bộ cũng luôn chú trọng triển khai thực hiện nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân, nâng cao đạo đức, văn hóa kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, đặc biệt là đối với các vấn đề mới phát sinh trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu.

Trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, doanh nhân, Bộ Công thương sẽ tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ để:

  • Hỗ trợ xây dựng và quốc tế hóa các doanh nghiệp, doanh nhân trong nước, xây dựng hệ thống doanh nghiệp công nghiệp lớn gắn với các thương hiệu hàng hóa Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế;
  • Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh số hóa,… tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp lớn toàn cầu; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân;
  • Tiếp tục tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp, doanh nhân nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khai thác có hiệu quả quá trình hội nhập quốc tế.

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên Nguyễn Hữu Nghĩa

Ngày 3/6/2017, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết nêu rõ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có nhiệm vụ phải tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân, nhất là tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực của kinh tế tư nhân.

Thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của nhân dân, cộng đồng tài chính và doanh nghiệp, thời gian qua, kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển quan trọng. Các chủ trương, quan điểm của Nghị quyết số 10-NQ/TW từng bước được thể chế hóa; nhiều chính sách, pháp luật đã được Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương ban hành nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh tế tư nhân phát triển. Hệ thống tài chính, ngân hàng tiếp tục được củng cố, cơ cấu lại và phát triển ổn định, an toàn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn, dịch vụ tài chính, ngân hàng cho nền kinh tế. Kinh tế tư nhân tiếp cận thuận lợi, bình đẳng hơn các nguồn vốn chính thức.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, đến nay hệ thống tài chính, ngân hàng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ vốn cho phát triển kinh tế-xã hội. Kinh tế tư nhân còn gặp khó khăn, vướng mắc, rào cản phát triển, trong đó có vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn. Nhiều phản ánh, kiến nghị về tình trạng thiếu vốn và khó khăn trong huy động, vay vốn từ thị trường tài chính. Những khó khăn, vướng mắc về tiếp cận vốn của kinh tế tư nhân xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, khách quan và chủ quan, từ cơ chế, chính sách và từ bản thân doanh nghiệp và các định chế tài chính, tín dụng, ngân hàng.

Xét về thực trạng cấu trúc thị trường tài chính hiện nay, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung ứng vốn quan trọng nhất trong nền kinh tế, trong khi thị trường vốn vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển. Do đó, để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững kinh tế-xã hội nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW, cần phải bảo đảm phát triển mạnh mẽ hơn các thị trường tài chính và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh tế tư nhân tiếp cận vốn.

Để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững kinh tế-xã hội nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW, cần phải bảo đảm phát triển mạnh mẽ hơn các thị trường tài chính và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh tế tư nhân tiếp cận vốn.
Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên Nguyễn Hữu Nghĩa

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Thị Phú Hà

Trong 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX về "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước" và các chủ trương của Ðảng về doanh nghiệp nhà nước, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nhà nước đã cụ thể hóa và triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, vai trò của doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế.

Ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW về "Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước". Theo đó, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị trường là một trong những nội dung, giải pháp quan trọng.

Doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai và xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các quyền và nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường.
Xóa bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bất bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế,...
Phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới. Hạn chế tình trạng sản xuất, kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Ðức Tiến

Doanh nghiệp nông nghiệp đóng góp vai trò quan trọng đối với phát triển của ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn. Ðặc biệt, kể từ khi có Nghị quyết 09-NQ/TW, số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ngày càng nhiều, đến nay cả nước có hơn 15 nghìn doanh nghiệp trực tiếp đầu tư sản xuất vào các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản (tăng hơn 3,4 lần so năm 2015), khẳng định vai trò trung tâm thúc đẩy nông nghiệp phát triển; nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn, doanh nghiệp FDI đã đẩy mạnh đầu tư trở thành nòng cốt của chuỗi giá trị và sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát triển thị trường.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như: Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và mới đây là Hiệp định Ðối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng giúp cho Việt Nam có thêm nhiều cơ hội để mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, tiếp cận khoa học-công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất, khả năng cạnh tranh đối với sản phẩm nông nghiệp.

Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu làm tăng rủi ro trong kinh doanh, nhưng cũng tạo cơ hội cho sản phẩm ứng dụng khoa học-công nghệ, cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nếu biết phát huy thế mạnh của khoa học-công nghệ trong nghiên cứu, sản xuất sản phẩm mới thích nghi với tình hình biến đổi khí hậu, tăng hàm lượng chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao, xây dựng thương hiệu và chuỗi phân phối sản phẩm.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số tạo ra cả cơ hội và thách thức mạnh mẽ đối với nông nghiệp trên các khía cạnh về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, thay đổi hành vi và cách thức tiêu thụ lương thực thực phẩm, phát triển chuỗi giá trị, cơ hội việc làm và phân hóa xã hội, quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để phát huy vai trò và đóng góp quan trọng của đội ngũ doanh nhân, trong đó có những giải pháp quan trọng như:

  • Xây dựng và triển khai một số cơ chế, chính sách đột phá về tài chính, thuế, phát triển nguồn nhân lực;
  • Đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn;
  • Phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước...

Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Ðà Nẵng Lê Trung Chinh

Một góc Đà Nẵng nhìn từ trên cao. Ảnh: danang.gov.vn

Một góc Đà Nẵng nhìn từ trên cao. Ảnh: danang.gov.vn

Một góc Đà Nẵng nhìn từ trên cao. Ảnh: danang.gov.vn

Một góc Đà Nẵng nhìn từ trên cao. Ảnh: danang.gov.vn

Trong những năm qua, Ðà Nẵng đã tích cực triển khai chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước trong khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính quyền thành phố Ðà Nẵng luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện để phát triển doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân, hướng hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân vào mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

Trên địa bàn thành phố Ðà Nẵng hiện có 35.508 doanh nghiệp và chi nhánh, văn phòng đại diện đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký đạt 236.981 tỷ đồng. Trong đó có 933 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hoạt động, với tổng vốn đăng ký 3,922 tỷ USD; 735 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư 160.500 tỷ đồng. Sau đại dịch, lĩnh vực du lịch đang phục hồi mạnh mẽ, đưa Ðà Nẵng trở lại vị thế dẫn đầu về sức hấp dẫn đối với du khách, nhà đầu tư. Các doanh nghiệp, doanh nhân đã đề xuất, xây dựng hàng loạt chương trình, kế hoạch mạnh mẽ, hiệu quả trong khôi phục và phát triển sản xuất.

Ðà Nẵng luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện để phát triển doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân, hướng hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân vào mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Ðà Nẵng Lê Trung Chinh

Cùng với sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân của Ðà Nẵng không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo.

Ðội ngũ doanh nhân trong khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày một trưởng thành, chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Ðội ngũ doanh nhân trong khu vực ngoài nhà nước ngày càng đông đảo, thể hiện tính năng động, hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Phát huy tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm với xã hội, đội ngũ doanh nhân ở Ðà Nẵng từng bước nâng cao được uy tín, thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế của thành phố cũng như của quốc gia đối với khu vực và quốc tế. Nhiều doanh nhân đã tích cực tham gia các chương trình xã hội, chương trình xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chương trình vì cộng đồng, gắn bó hơn với giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Có thể khẳng định, đội ngũ doanh nhân ở Ðà Nẵng đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa địa phương và đất nước, giúp Ðà Nẵng vươn tầm khu vực và quốc tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thành phố.

Ðội ngũ doanh nhân Ðà Nẵng đã và đang lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, nâng cao trình độ, kiến thức, phẩm chất đạo đức, ý thức công dân, trách nhiệm xã hội và tinh thần dân tộc, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch HÐTV Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) Dương Quang Thành

Tập đoàn luôn tự hào truyền thống 68 năm ngành Ðiện lực cách mạng Việt Nam luôn đồng hành cùng đất nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước, Chính phủ, EVN luôn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị quan trọng được giao phó, bảo đảm cung cấp điện an toàn, ổn định, liên tục cho phát triển sản xuất, kinh doanh, đời sống sinh hoạt của nhân dân, góp phần bảo đảm an ninh-quốc phòng.

Trong giai đoạn hiện nay, EVN vinh dự cùng với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam chiếm khoảng 87% tổng sản lượng điện năng cung cấp cho xã hội.

Mặc dù cần đa dạng hóa hình thức đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia đầu tư các dự án điện phù hợp định hướng Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị nhưng cũng cần tiếp tục xác định vai trò nòng cốt, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong triển khai thực hiện Quy hoạch điện, đầu tư các dự án lớn, quan trọng của đất nước.

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục có các cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển điện lực. Ðồng thời, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giá điện bảo đảm các nguyên tắc của cơ chế thị trường, tính đúng, tính đủ và tạo nguồn lực tài chính để tái đầu tư ngành điện.

EVN kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong hoạt động điện lực, trong đó, cần sớm rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật về lĩnh vực điện lực; có cơ chế đặc thù để rút ngắn thời gian đầu tư các dự án điện, chính sách hỗ trợ về tài chính, giải phóng mặt bằng cho dự án điện và xử lý vướng mắc pháp lý liên quan việc chuyển đổi đất rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia trong lĩnh vực năng lượng phù hợp các quy định, tiêu chuẩn quốc tế, có xét đến các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia liên quan việc tái chế, sử dụng chất thải từ quá trình sản xuất năng lượng...

Đội Quản lý vận hành Lưới điện cao thế Nam Định tăng cường công tác kiểm tra thiết bị, bảo đảm cấp điện cho SEA Games 31. Ảnh: EVN

Đội Quản lý vận hành Lưới điện cao thế Nam Định tăng cường công tác kiểm tra thiết bị, bảo đảm cấp điện cho SEA Games 31. Ảnh: EVN

Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) Lê Mạnh Hùng

Biến động từ môi trường kinh doanh, môi trường tự nhiên-xã hội đến sự phát triển như vũ bão của khoa học-công nghệ,... đã, đang và sẽ tác động rất lớn đến các doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp có quy mô tài sản lên tới hơn 40 tỷ USD như Petrovietnam.

Xuất phát từ những khó khăn do môi trường kinh doanh biến động quá nhanh, Petrovietnam đã chủ động xây dựng và triển khai các bộ giải pháp để quản trị biến động; định kỳ cập nhật các thông tin về kinh tế vĩ mô, thị trường, các yếu tố biến động tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh,... đưa vào hoạt động quản trị điều hành thường kỳ; thường xuyên đổi mới công tác quản trị cùng với nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin, các hệ thống quản trị nguồn lực tổng thể doanh nghiệp như ERP, SAP và chuyển đổi số,...; tăng cường quản trị theo chuỗi, kết nối các nguồn lực giữa các đơn vị trong Tập đoàn cũng như các đơn vị ngoài Tập đoàn nhằm ứng phó những biến động nhanh, phức tạp của thị trường và nền kinh tế cả trong nước và quốc tế.

Muốn đẩy mạnh nền kinh tế phát triển, Nhà nước, Chính phủ cần xây dựng hành lang pháp lý cũng như các cơ chế, chính sách phát triển đồng nhất, phù hợp bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Riêng với ngành dầu khí, Nhà nước cần sớm ban hành Luật Dầu khí sửa đổi để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư, mở rộng sản xuất.

Nhà nước cần sớm ban hành Luật Dầu khí sửa đổi để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư, mở rộng sản xuất.
Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) Lê Mạnh Hùng

Petrovietnam và các đơn vị thành viên luôn nỗ lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng kịp thời sản phẩm chiến lược từ lọc hóa dầu, phân bón đến các sản phẩm thiết yếu để ổn định kinh tế vĩ mô, đóng góp cho ngân sách, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển thông qua hoạt động dầu khí trên Biển Ðông,... Ðó chính là sứ mệnh của Petrovietnam để góp phần xây dựng và phát triển Tổ quốc Việt Nam hùng cường.

Ngày xuất bản: 11/10/2022
Thực hiện: NHÓM PHÓNG VIÊN
Trình bày: TRUNG HƯNG
Ảnh: BÁO NHÂN DÂN, EVN, danang.gov.vn