Mùa Thu năm 1945, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, đồng bào ta từ bắc chí nam, triệu người như một, nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

E-Magazine I nhandan.vn

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây không chỉ là một chính thể mới, mà còn thiết lập một hệ hình phát triển mới cho quốc gia: Hệ hình của một nước độc lập, hướng tới dân chủ, tự do và tiến bộ, một điều trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử dân tộc...

Mùa Thu năm 1945, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, đồng bào ta từ bắc chí nam, triệu người như một, nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

Sau thắng lợi  của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây không chỉ là một chính thể mới, mà còn thiết lập một hệ hình phát triển mới cho quốc gia: Hệ hình của một nước độc lập, hướng tới dân chủ, tự do và tiến bộ, một  điều trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử dân tộc...

E-Magazine I nhandan.vn

Sinh thời, Nhà báo Thép Mới đã viết bài “Khi Tân Trào nhập vào Hà Nội”. Ông khẳng định: Sức mạnh nhân dân là nền tảng với đóng góp to lớn về sức người, sức của. Nền tảng ấy được củng cố, phát huy, tiếp tục nối dài trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và xây dựng Tổ quốc.

Những câu chuyện về toàn dân kháng chiến là bài học kinh nghiệm quý báu về huy động sức dân, lý giải vì sao “Dân là gốc”, là cội nguồn sức mạnh, là tư tưởng xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình dựng nước, giữ nước và tiến trình của cách mạng Việt Nam từ sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công.

80 năm kể từ ngày vua Bảo Đại thoái vị, dòng người mặc áo đỏ sao vàng đi qua cửa Thể Nhơn (Thành phố Huế) trong sự kiện "Cùng Việt Nam tiến bước" do Báo Nhân Dân và Bộ Công an phối hợp tổ chức. (Ảnh: Lê Đình Hoàng)

80 năm kể từ ngày vua Bảo Đại thoái vị, dòng người mặc áo đỏ sao vàng đi qua cửa Thể Nhơn (Thành phố Huế) trong sự kiện "Cùng Việt Nam tiến bước" do Báo Nhân Dân và Bộ Công an phối hợp tổ chức. (Ảnh: Lê Đình Hoàng)

Những ngày sục sôi

Đội du kích Ba Tơ thành lập ngày 14/3/1945, là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu trong tổng khởi nghĩa ở miền trung, góp phần vào thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945. (Ảnh: TTXVN)

Đội du kích Ba Tơ thành lập ngày 14/3/1945, là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu trong tổng khởi nghĩa ở miền trung, góp phần vào thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945. (Ảnh: TTXVN)

Để đi đến Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân Việt Nam đã trải qua vô vàn khó khăn, gian khổ, từ Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng... để làm nên những  kỳ tích vẻ vang. Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra và giành thắng lợi vào ngày 11/3/1945 đã ghi dấu ấn sâu đậm, trở thành biểu tượng của tinh thần quật khởi, đoàn kết và sáng tạo của nhân dân Ba Tơ, Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung.

Sức sống mới trên vùng đất An toàn khu Ba Tơ. (Ảnh: Hiển Cừ)

Sức sống mới trên vùng đất An toàn khu Ba Tơ. (Ảnh: Hiển Cừ)

Trong hồi ký “Bình Minh Ba Tơ” (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản năm 1995), Trung tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Đôn, nguyên Chính trị viên Đội Du kích Ba Tơ, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kể lại thời khắc lịch sử của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi: “Chúng tôi hạ cờ ba sắc, kéo lá cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột giữa sân đồn. Gió đêm thổi mạnh, lá cờ phần phật tung bay. Ngoài kia, trên các ngả đường đổ về phố huyện, dưới ánh đuốc bập bùng đồng bào vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm”. Tiếng trống, tiếng mõ, tù và vang động núi rừng miền tây. Cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ như tiếng pháo ầm vang báo hiệu cho đồng bào quê tôi vùng lên hướng theo ngọn cờ của Đảng, đẩy mạnh phong trào nhanh chóng tiến tới Cách mạng tháng Tám thành công”.

Tượng đài Khởi nghĩa Ba Tơ. (Ảnh: Hiển Cừ)

Tượng đài Khởi nghĩa Ba Tơ. (Ảnh: Hiển Cừ)

Trong tham luận “Thế trận lòng dân” tại Hội thảo Khoa học “Khởi nghĩa Ba Tơ - Giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm” diễn ra vào ngày 11/3/2025, Thượng tướng Lê Chiêm, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: “Thế trận lòng dân” trong Khởi nghĩa Ba Tơ khẳng định sức mạnh của cách mạng nằm ở nhân dân và sự lãnh đạo đúng đắn cùng với chính sách hiệu quả là yếu tố then chốt. Trong giai đoạn hiện nay, những bài học từ cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ vẫn vẹn nguyên giá trị trong việc phát huy tinh thần đoàn kết, khơi dậy sức mạnh của nhân dân, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

Trưởng đoàn Trần Huy Liệu (phải) nhận thanh kiếm nạm ngọc từ vua Bảo Đại thoái vị, chiều 30/8/1945. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế)

Trưởng đoàn Trần Huy Liệu (phải) nhận thanh kiếm nạm ngọc từ vua Bảo Đại thoái vị, chiều 30/8/1945. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế)

Một trong số ít những lão thành cách mạng hiện còn sống ở tỉnh Thừa Thiên Huế (trước đây), nay Thành phố Huế đã từng tham gia khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền cách đây 80 năm là ông Nguyễn Trung Chính (97 tuổi), nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế. Ở tuổi đại thọ, ông vẫn nhớ như in khí thế cách mạng sục sôi trong những ngày Ngọn cờ Tháng Tám tung bay, dậy hồn sông núi. Khi đó, ông mới 17 tuổi hăng hái đi theo Cách mạng. Ông Chính kể: “Cách mạng tháng Tám năm 1945, tôi tham gia phong trào của quần chúng, cả làng cả nước theo đà chung để đi giành chính quyền. Chúng tôi giành chính quyền tại huyện Quảng Điền, một khí thế chưa từng có...”.

Lầu Ngũ Phụng, Ngọ Môn Huế, nơi 80 năm trước vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ, tuyên bố thoái vị. (Ảnh: Lê Đình Hoàng)

Lầu Ngũ Phụng, Ngọ Môn Huế, nơi 80 năm trước vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ, tuyên bố thoái vị. (Ảnh: Lê Đình Hoàng)

Từ khi có Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng, ngày 12/3/1945, khi thấy thời cơ đến Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã chủ động quyết định thời cơ phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh. Từ ngày 18 đến 22/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa các huyện trong tỉnh Thừa Thiên Huế đã nổi dậy giành chính quyền. Tại kinh đô Huế, trung tâm đầu não của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, ngày 22/8/1945, quần chúng nhân dân đã vùng lên chiếm lĩnh hầu hết các cơ quan, công sở và doanh trại lính bảo an. Tối ngày 22/8, Ủy ban Khởi nghĩa của tỉnh đã gửi tối hậu thư yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Chiều 23/8, hàng vạn người dân Thừa Thiên Huế và các đội Thanh niên tiền tuyến tiến về sân vận động Huế dưới rừng cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”...

Dòng người áo đỏ sao vàng qua cửa Thể Nhơn (Thành phố Huế) trong sự kiện cùng Việt Nam tiến bước do Báo Nhân Dân và Bộ Công an phối hợp tổ chức. (Ảnh: Lê Đình Hoàng)

Dòng người áo đỏ sao vàng qua cửa Thể Nhơn (Thành phố Huế) trong sự kiện cùng Việt Nam tiến bước do Báo Nhân Dân và Bộ Công an phối hợp tổ chức. (Ảnh: Lê Đình Hoàng)

Khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân như “triều dâng, thác đổ” không gì ngăn cản nổi, đã biến cuộc mít tinh của Chính phủ Trần Trọng Kim mừng việc Nhật trao trả quyền cai trị Nam Kỳ cho triều đình nhà Nguyễn ở Sân vận động Huế thành cuộc mít tinh biểu dương lực lượng, giành chính quyền của cách mạng. Tại đây, đồng chí Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa tuyên bố: Từ nay chính quyền về tay nhân dân, đồng thời trân trọng giới thiệu ra mắt Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên-Huế do ông Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch.

Khí thế Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân ở mảnh đất kinh đô xưa đã được đồng chí Tố Hữu, người đứng đầu cuộc khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám ở Thừa Thiên Huế thể hiện cô đọng, xúc cảm và đầy tự hào qua những vần thơ:

“Tháng 8 vùng lên Huế của ta
Quảng, Phong ơi! Hương Thủy, Hương Trà
Phú Vang, Phú Lộc đò lên Huế
Đỏ ngập dòng sông rộn tiếng ca”.

Nhà nghiên cứu Sử học và Văn hóa Huế, ông Dương Phước Thu cho rằng: Sự thoái vị của Bảo Đại đã góp phần làm nên giá trị nhân văn sâu sắc của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, sự yên bình hiếm có khi quyền lực chính quyền chuyển về tay nhân dân.

Sự thoái vị của Bảo Đại đã góp phần làm nên giá trị nhân văn sâu sắc của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, sự yên bình hiếm có khi quyền lực chính quyền chuyển về tay nhân dân.
Nhà nghiên cứu Sử học và Văn hóa Huế Dương Phước Thu

Theo ông: “Những bài học thành công ở Huế đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Thứ nhất là lòng yêu nước của Nhân dân, khát vọng hòa bình, giải phóng bản thân, giải phóng gia đình và giải phóng quốc gia; xây dựng quốc gia độc lập, hòa bình. Thứ hai là quyền của người dân được phát huy. Thứ ba là sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất xung quanh một chính đảng có tổ chức, có sự lãnh đạo và sự đồng lòng, đồng sức, đứng lên thành một đội ngũ, giành chính quyền”.

Cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra và giành thắng lợi vào ngày 11/3/1945 đã ghi dấu ấn sâu đậm, trở thành biểu tượng của tinh thần quật khởi, đoàn kết và sáng tạo của nhân dân Ba Tơ, Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung.

Lòng dân, sức dân - thành lũy muôn đời

Nhân dân huyện Ba Tơ tham gia đánh chiếm đồn Ba Tơ ngày 11/3/1945. (Ảnh: TTXVN)

Nhân dân huyện Ba Tơ tham gia đánh chiếm đồn Ba Tơ ngày 11/3/1945. (Ảnh: TTXVN)

Quang cảnh khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I, ngày 2/3/1946. (Ảnh: TTXVN)

Quang cảnh khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I, ngày 2/3/1946. (Ảnh: TTXVN)

Nhờ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi và mạnh mẽ, khi thời cơ đến, theo Lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng, đáp lời kêu gọi của Hồ Chí Minh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ toàn dân Việt Nam đã kịp thời cùng đứng lên giành lại độc lập.

Chính quyền cách mạng “không đồng minh, không tiền, hầu như không vũ khí”, chỉ có sự ủng hộ của nhân dân, cùng lúc phải chống cả “giặc đói”, giặc dốt” và giặc ngoại xâm, nhưng đã đứng vững trước tất cả các âm mưu của kẻ thù. Toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất cả đều hướng tới mục tiêu dân tộc độc lập, tự chủ, tự cường.

Chính quyền cách mạng “không đồng minh, không tiền, hầu như không vũ khí”, chỉ có sự ủng hộ của nhân dân, cùng lúc phải chống cả “giặc đói”, giặc dốt” và giặc ngoại xâm, nhưng đã đứng vững trước tất cả các âm mưu của kẻ thù.

Trong những năm, tháng vận mệnh dân tộc nguy nan, Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết đã trở thành khẩu hiệu tập hợp đoàn kết toàn dân. Lòng dân đồng thuận đã cùng xây dựng và bảo vệ thành công Chính quyền cách mạng.

Ngay từ trước ngày nổ súng toàn quốc kháng chiến, Đảng ta đã tiên liệu bản chất thực dân không thay đổi, và xác định kháng chiến là tất yếu. Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (12/1946) đã đề ra tư tưởng chủ đạo cho toàn cuộc kháng chiến: Trường kỳ, toàn dân, toàn diện. Vì vậy, chỉ ít ngày sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, lời hiệu triệu được lan rộng khắp cả nước: “Mỗi người dân là một chiến sĩ. Mỗi làng xóm là một pháo đài”.

Chiến tranh cách mạng không thể thắng bằng đơn độc lực lượng vũ trang, mà phải trở thành chiến tranh của toàn dân, dựa vào dân mà chiến đấu, từ dân mà lớn mạnh.

Dưới làn bom đạn, người dân vẫn tỏa ra chiến trường với những đôi vai trần, đôi chân đất, những chiếc xe đạp thồ oằn gánh đạn dược, gạo muối. Dân công hỏa tuyến - một lực lượng kỳ vĩ chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hiện đại đã làm nên kỳ tích. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, hàng chục vạn dân công, hàng chục nghìn xe đạp thồ, hàng chục nghìn ngựa thồ, thuyền nan, bè tre… đã vượt rừng, băng suối, mở đường tiếp viện cho tiền tuyến.

Một chiếc xe đạp thồ có thể chở 200-300kg hàng. Một chiếc đòn gánh có thể vượt trăm cây số, vì nó được đặt trên vai của những người mẹ, người chị - họ không mang súng, nhưng họ mang cả Tổ quốc trong trái tim, trong hành trình âm thầm mà vĩ đại ấy.

Chiều 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến-Quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh tư liệu

Chiều 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến-Quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh tư liệu

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với các địa phương khác trong cả nước, Nghệ An là hậu phương vững chắc, tiếp viện cho chiến trường. Thực hiện lệnh tổng động viên phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ trong ngày Mùng 1 Tết Nguyên đán Giáp Ngọ (ngày 3/2/1954), đã có 32.000 dân công tỉnh Nghệ An, cùng hàng nghìn tân binh, thanh niên xung phong, quân giới đã nô nức lên đường ra tiền tuyến. Tháng 2/1954, đã có 5.438 thanh niên Nghệ An hăng hái tham gia nhập ngũ và còn huy động 6.600 dân công, đóng góp hơn 1,5 triệu ngày công để mở các tuyến đường ra trận. Cùng với quân và dân cả nước, quân dân Nghệ An đã có đóng góp quan trọng, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".

Ông Phạm Văn Hòa trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân.

Ông Phạm Văn Hòa trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân.

Ông Phạm Văn Hòa, ở phường Vinh Phú (tỉnh Nghệ An), năm nay 89 tuổi, nhớ lại: Tháng 10/1953, lúc đấy tôi mới 17 tuổi đã xung phong đi Thanh niên xung phong tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ theo thư kêu gọi của Bác Hồ. Cứ ngày nghỉ, đêm đi, Đại đội Thanh niên xung phong C294 của ông Hòa hành quân từ Nghệ An lên Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu rồi đến Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên) tròn 40 ngày. Đêm núi rừng Tây Bắc, từng đoàn dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong đi như trẩy hội với “chị gánh, anh thồ” lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ chiến trường Điện Biên phủ.

Khi tới huyện Mường La (tỉnh Sơn La), ông Hòa cùng một số anh em được ngủ trong một căn nhà đơn sơ của đồng bào Thái. Khi đỡ ba lô cho chàng trai trẻ, thấy vai áo bị rách, mẹ mới nói: “Bộ đội ơi, êm phụng!” nghĩa là “Bộ đội ơi, mẹ vá!”. Tình cảm của bà mẹ người Thái dành cho ông Hòa như là của những bà bủ, bà bầm, của những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đối với người con của mình. Được đón nhận tình cảm của những người mẹ đặc biệt Mường La là nguồn động lực để những người như ông Hòa cố gắng hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao.

Trong suốt chiến dịch Điện Biên phủ, ông Hòa cùng đồng đội của mình tham gia nhiều mặt trận; trong đó, phải kể đến việc làm đường, đếm bom nổ chậm tại đỉnh đèo Pha Đin, san lấp hố bom để thông xe đưa hàng ra mặt trận... 71 năm đã trôi qua với bao kỷ niệm oanh liệt, ông Hòa vẫn nhớ như in vần thơ viết tặng người mẹ Mường La năm xưa: “Áo vá xong con mặc vào thấy ấm/Lòng xốn xao thương mẹ quá đi hoài/Tây Bắc, Điện Biên, Na Sản, Mường La/Có những mẹ già trái tim nhân ái…”.  

Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Lễ ký Hiệp định Paris ngày 21/7/1973. (Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng)

Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Lễ ký Hiệp định Paris ngày 21/7/1973. (Nguồn: Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng)

Sau Hiệp định Geneva, tháng 7/1954, đối diện với âm mưu chia cắt Việt Nam lâu dài, biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, nhân dân Việt Nam buộc phải đi tiếp chặng đường 21 năm đấu tranh kiên cường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ và Chính quyền tay sai, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.

Ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của toàn dân Việt Nam một lần nữa được thổi bùng mạnh mẽ, cô đọng trong chân lý được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Hàng triệu thanh niên đã “xẻ dọc Trường Sơn” đi cứu nước qua Con đường Hồ Chí Minh huyền thoại - con đường chiến lược nối liền nam-bắc được mở bằng bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.

Hậu phương lớn miền bắc tự bảo vệ mình trước cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ đồng thời dồn sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền nam - “Tất cả vì miền nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiến tuyến”, “Tất cả để chiến thắng”. Quân và dân miền nam anh dũng kiên cường chiến đấu đánh bại tất cả các âm mưu chiến tranh, các chiến thuật và phương tiện, khí tài hiện đại của Mỹ.

Quang cảnh buổi lễ ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27/1/1973. Ảnh tư liệu

Quang cảnh buổi lễ ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27/1/1973. Ảnh tư liệu

Ngày 27/1/1973, Mỹ phải ký Hiệp định Paris, chấm dứt sự hiện diện của quân đội Mỹ ở miền nam Việt Nam. Cho đến 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, ý chí quyết tâm chiến đấu hy sinh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã hoàn toàn chiến thắng.

Hàng triệu thanh niên đã “xẻ dọc Trường Sơn” đi cứu nước qua đường Hồ Chí Minh huyền thoại - con đường chiến lược nối liền nam-bắc được mở bằng bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.

Ảnh: Vận chuyển vũ khí lương thực, thực phẩm từ miền bắc tiến về Sài Gòn. (Nguồn: TTXVN)

Dẫn chúng tôi đi giữa buôn Akô Dhông lộng gió, Nghệ nhân Y Bhiông Niê, 87 tuổi, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Đắk Lắk, hiện sinh sống ở buôn Akô Dhông, phường Buôn Ma Thuột tự hào, cho biết: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tôi làm công tác Tuyên huấn nên được đến rất nhiều buôn làng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Thời điểm ấy, chiến tranh diễn ra rất ác liệt, nhiều buôn làng đồng bào Ê Đê bị bom đạn giặc Mỹ tàn phá, cày xới, đời sống của đồng bào hết sức khó khăn, gian khổ, nhưng khi tôi đến buôn làng nào tuyên truyền, vận động, bà con đều bày tỏ sự căm phẫn trước tội ác của Mỹ, Ngụy và luôn tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng và tin vào ngày thắng lợi nên ra sức thi đua lao động, sản xuất, cung cấp lương thực cho cán bộ, bộ đội đánh giặc”.

“Lúc bấy giờ, giao thông đi lại còn khó khăn và thiếu phương tiện vận chuyển lương thực, vũ khí nên chúng ta đã sử dụng voi để vận tải đạn dược, vũ khí và lương thực phục vụ kháng chiến cho đến ngày thắng lợi cuối cùng”, ông Y Bhiông Niê nhấn mạnh.

Nghệ nhân Y Bhiông Niê và phóng viên Báo Nhân Dân tại nhà riêng.

Nghệ nhân Y Bhiông Niê và phóng viên Báo Nhân Dân tại nhà riêng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, chiến sĩ: “Trung với nước, Hiếu với dân”, phải luôn “Dựa vào dân” vì “Có dân là có tất cả”. Tư tưởng đó được vận dụng trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam - đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dựa vào sự ủng hộ của nhân dân để lớn mạnh.

Quân đội nhân dân Việt Nam - đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dựa vào sự ủng hộ của nhân dân để lớn mạnh.

Chúng ta đánh địch trên mọi mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa; đánh địch trên ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: chính trị, quân sự và binh vận; kết hợp/phối hợp ba lực lượng: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để chiến thắng. Sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang được hợp thành/làm nên bởi sức mạnh của cả dân tộc.

Một góc Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk).

Một góc Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk).

Thế trận Chiến tranh nhân dân Việt Nam hiện đại vẫn được xây dựng trên nền tảng lòng yêu nước nồng nàn, truyền thống đánh giặc kiên cường và mưu trí của toàn dân, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” nhưng với tư duy vượt trước “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”, “phát huy “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”.

“Dân là gốc” trở thành phương châm hành động, là kim chỉ nam trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng.

Binh đoàn xe đạp thồ trên đường ra chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN

Binh đoàn xe đạp thồ trên đường ra chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN

------------------------

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ, kháng chiến chống Mỹ cứu nước - đều là biểu hiện rực rỡ của chân lý: “Lòng dân là thành lũy vững chắc nhất của quốc gia”. Kháng chiến thắng lợi, đất nước bước sang trang mới, nhưng bài học ấy không bao giờ cũ. “Dân là gốc” trở thành phương châm hành động, là kim chỉ nam trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng. Bởi chỉ khi vì dân, do dân, dựa vào dân, thì cách mạng mới đạt đến thắng lợi vẻ vang.

Ngày xuất bản: 9/2025
Tổ chức thực hiện: ĐỨC NGHĨA, TRƯỜNG SƠN, HẢI CHUNG
Nội dung: Lê Lan, Tuấn Sơn, Trần Hảo, Quang Thọ, Trần Tuấn, Thành Châu, Công Hậu, Thái Sơn, Đình Tăng, Hiền Cừ, Mạnh Hảo, Hữu Tùng, Ngọc Trâm, Đức Thắng, Thanh Sơn, Ngọc Long, Quý Hiền, Công Lý,
Khánh Toàn, Vương Anh, Trung Hiếu
Trình bày: Ngô Hương

Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN