Trong 50 năm từ khi đất nước thống nhất đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 10 khóa: khóa VI (1976-1981), khóa VII (1981- 1987), khóa VIII (1987-1992), khóa IX (1992-1997), khóa X (1997-2002), khóa XI (2002-2007), khóa XII (2007-2011), khóa XIII (2011-2016), khóa XIV (2016-2021), khóa XV (2021-2026).
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ nhân dân ta bắt tay vào sự nghiệp xây dựng một xã hội theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ dự mít tinh tại Hà Nội mừng miền nam hoàn toàn giải phóng, ngày 7/5/1975.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ dự mít tinh tại Hà Nội mừng miền nam hoàn toàn giải phóng, ngày 7/5/1975.
Tại Hội nghị Hiệp thương chính trị tháng 11/1975, đại biểu hai miền nam, bắc đã cùng thống nhất xác định: Việc quan trọng trước mắt là, “Cần tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước... Quốc hội đó sẽ xác định thể chế nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và Quyết định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất”(1). Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị về cuộc Tổng tuyển cử và cuộc Tổng tuyển cử đã thành công... Quốc hội khóa VI là Quốc hội thống nhất cả nước đã được xác lập.
Trải qua 16 năm (1976-1992), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ khóa VI đến khóa VIII hoạt động trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản (non sông thu về một mối, nhân dân phấn khởi được hưởng độc lập, tự do, dân chủ...) thì cũng xuất hiện muôn vàn khó khăn, thử thách; nguồn viện trợ bị cắt giảm, các thế lực thù địch tăng cường bao vây, cấm vận, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc, Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, hậu quả chiến tranh nặng nề chưa khắc phục xong thì chiến tranh lại xảy ra ở biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc, nền kinh tế-xã hội lâm vào khủng hoảng...
Quốc hội biểu quyết thông qua Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội thống nhất, ngày 2/6/1976.
Quốc hội biểu quyết thông qua Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội thống nhất, ngày 2/6/1976.
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã hoàn thành nhiệm vụ trọng đại trong việc quyết định những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước. Quốc hội khóa VI quyết định tên nước, quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô và Quốc ca của nước Việt Nam thống nhất; quyết định thành lập các cơ quan cấp cao của Nhà nước, bầu, phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước... đã mở ra một trang mới trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa...
Quốc hội khóa VI đã tập trung sửa đổi, bổ sung và thông qua Hiến pháp năm 1980- Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước theo tinh thần Đại hội IV của Đảng. Từ đây cả nước bước vào thực hiện nhiệm vụ chiến lược chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cán bộ, chiến sĩ quân đội trên đảo Trường Sa tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII, tháng 4/1981.
Cán bộ, chiến sĩ quân đội trên đảo Trường Sa tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII, tháng 4/1981.
Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VII, ngày 25/6/1981
Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VII, ngày 25/6/1981
Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tiếp xúc thân mật với các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII, tháng 6/1987.
Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tiếp xúc thân mật với các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII, tháng 6/1987.
Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII, ngày 17/6/1987.
Khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII, ngày 17/6/1987.
Quốc hội khóa VII đã quy định tổ chức của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; bầu, phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước ở Trung ương. Khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội.
Là mô hình mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nên Quốc hội khóa VI, khóa VII phải xây dựng lại các luật tổ chức bộ máy nhà nước: Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng nhà nước; Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân...
Thành công lớn nhất của Quốc hội khóa VIII là đã sửa đổi, bổ sung và thông qua Hiến pháp năm 1992; trong đó có sự điều chỉnh quan trọng là lập lại chế độ Chủ tịch nước là cá nhân, thành lập lại Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hiến pháp 1992 - Hiến Pháp của thời kỳ đổi mới đã thể chế hóa toàn diện đường lối đổi mới của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới. Quốc hội khóa VIII - Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Quốc hội đi vào xây dựng, ban hành các đạo luật kinh tế - thể chế hóa chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước.
Là nhiệm kỳ đầu tiên của công cuộc đổi mới, cũng là nhiệm kỳ có khối lượng công tác lập pháp khá lớn kể từ các khóa trước tới nay. Quốc hội ban hành 31 luật, bộ luật; Hội đồng Nhà nước ban hành 39 pháp lệnh.
Đoàn thiếu nhi Thủ đô đến chào mừng các đại biểu Quốc hội khóa IX trong phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, ngày 20/9/1992.
Đoàn thiếu nhi Thủ đô đến chào mừng các đại biểu Quốc hội khóa IX trong phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, ngày 20/9/1992.
Quốc hội từ khóa IX đến khóa XII hoạt động trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã hoàn thành sứ mệnh là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân; phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thuận lợi cơ bản là sự nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu, kinh tế tăng trưởng nhanh; văn hóa, xã hội tiến bộ trên nhiều mặt; vị thế của đất nước được tăng lên trên trường quốc tế; đời sống của nhân dân được cải thiện; độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia được giữ vững... Nhưng khó khăn cũng vô cùng lớn, đó là, thế giới từ 2 cực, bị phân mảnh chuyển sang đa cực, có nhiều yếu tố phức tạp, khó lường.
Từ năm 2008, thế giới rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế-tài chính; biến đổi khí hậu. Ở trong nước chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp; tệ quan liêu, tham nhũng chưa bị đẩy lùi; xuất hiện tình trạng suy thoái đạo đức, tư tưởng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm lòng tin trong công chúng...
Cử tri dân tộc Mường (Hòa Bình) tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X, tháng 7/1997.
Cử tri dân tộc Mường (Hòa Bình) tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X, tháng 7/1997.
Trong bối cảnh đó, Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội X của Đảng khẳng định, “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp... Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội... Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao”(2).
Bước vào thế kỷ thứ XXI, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, vừa có vinh dự to lớn, vừa có trách nhiệm nặng nề trước vận mệnh của dân tộc ta trong thế kỷ thứ XXI.
Hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi cư trú về những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI.
Hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi cư trú về những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI.
Trong công tác lập pháp, Quốc hội các khóa đã tập trung thể chế hóa đường lối đổi mới tại các Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng và Hiến pháp năm 1992. Quốc hội khóa X đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Quốc hội tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, phân định phạm vi thẩm quyền lập pháp và quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Từ Quốc hội khóa XI, hoạt động lập pháp có bước đột phá với những đổi mới vế quy trình lập pháp. Quốc hội khóa này đã thông qua 84 luật, bộ luật, 16 nghị quyết quy phạm pháp luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 35 pháp lệnh. Hệ thống pháp luật, nhất là những luật mới được ban hành đã góp phần quan trọng cho Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Quốc hội khóa XII chỉ có 4 năm nhưng cũng thông qua được 67 luật, 13 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 14 pháp lệnh và 11 nghị quyết quy phạm pháp luật. Đó là các luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri tại phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình trước Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khoá XII, ngày 3/5/2010.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri tại phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình trước Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khoá XII, ngày 3/5/2010.
Sự đổi mới hoạt động lập pháp từ khóa IX đến khóa XII đã tạo tiền đề cho việc thực hiện mục tiêu từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế...
Hoạt động giám sát được kết hợp nhiều hình thức giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đem lại kết quả tốt, trong đó Quốc hội tăng cường giám sát chuyên đề và hoạt động chất vấn...
Quốc hội từ khóa XIII đến khóa XV (2011-2026) được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 2013. Những năm 2011-2016, nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm; kinh tế vĩ mô dần ổn định, tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, lạm phát được kiểm soát. Việc cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện các đột phá chiến lược đạt kết quả tích cực, tuy nhiên, nền kinh tế phát triển vẫn chưa thật bền vững.
Phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV.
Phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV.
Đến năm 2016, đất nước đã trải qua 30 năm đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020. Hoạt động của Quốc hội góp phần đắc lực trong việc đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại...
Bước vào nhiệm kỳ khóa XV, năm 2021 đại dịch Covid-19 đã bùng phát và lan rộng, song nền kinh tế-xã hội vẫn đạt kết quả tích cực; cả nước khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong đó, Quốc hội phải đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả, phát huy dân chủ, tăng tính chuyên nghiệp trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình; xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và ổn định.
SÁU BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm chắc chắn thành công cho mọi hoạt động của Quốc hội
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là một tất yếu khách quan đã được hiến định. Điều 4 các Hiến pháp 1980, 1992 và 2013 đều quy định, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đó cũng là yêu cầu thiết thân của Quốc hội để có thể đóng góp thành quả lớn nhất cho cách mạng. Nếu trong chiến tranh, sự lãnh đạo của Đảng tập trung chủ yếu vào chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thì trong thời bình Đảng chú trọng lãnh đạo đối với tất cả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
Trong đó chức năng giám sát được nâng lên một tầm cao mới nhằm xem xét, đánh giá đúng đắn việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Quốc hội đối với các lĩnh vực hành pháp, tư pháp và ngay cả đối với Quốc hội.
Đoàn Giám sát của Quốc hội làm việc với các bộ, ngành.
Đoàn Giám sát của Quốc hội làm việc với các bộ, ngành.
Chúng ta đều biết, trong những năm 1985-1990, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đều đề xướng và bắt đầu công cuộc cải tổ hoặc đổi mới, nhưng không phải nước nào cũng thành công. Liên Xô, Đông Âu sụp đổ vì sai lầm về đường lối cải tổ. Việt Nam thành công và phát triển vì đường lối đổi mới đúng đắn. Đó là, trước tiên phải đổi mới nền kinh tế; khi nền kinh tế vững vàng, phát triển thì mới từng bước đổi mới hệ thống chính trị...
Nhìn lại hệ thống pháp luật Việt Nam chúng ta dễ dàng nhận ra, tất cả các luật kinh tế đều được Quốc hội xây dựng, thông qua trong công cuộc đổi mới. Sự lãnh đạo của Đảng ngày càng cụ thể, rõ ràng, chi tiết và mục tiêu cần đạt đến.
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 17/5/2025.
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 17/5/2025.
Đại hội XIII của Đảng yêu cấu Quốc hội phải đổi mới tổ chức và hoạt động, trong đó lập pháp phải đạt mục tiêu Xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và ổn định. Và ngay bây giờ Quốc hội đang đổi mới tổ chức theo hướng tinh, gọn, nhẹ hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo. Ngay từ khi mới bắt đầu công cuộc đổi mới, tại kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa VIII, ngày 17/6/1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã chỉ rõ, “Tất cả những những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định về mặt nhà nước phải được đưa ra Quốc hội, Hội đồng Nhà nước thật sự bàn bạc dân chủ trước khi có nghị quyết chính thức, tuyệt đối không được đặt cơ quan dân cử trước những việc đã được quyết định rồi, chỉ còn một cách là thụ động biểu quyết thông qua”(3).
Điều đó cắt nghĩa, vì sao hoạt động của Quốc hội nói chung, quyết nghị các vấn đề quan trọng nói riêng ngày càng chính xác và có chất lượng cao.
2. Dân chủ hóa, từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động của Quốc hội
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định, “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.
Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. Quốc hội đã và đang mở rộng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội. Dân chủ đã được Quốc hội thể chế hóa ngay từ khi Quốc hội mới ra đời. Một trong 3 nguyên tắc của Hiến pháp năm 1946 là, “Bảo đảm các quyền tự do dân chủ” và ngay Điều thứ nhất của Hiến pháp đã quy định, “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa”. Ngày nay là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì tính chất dân chủ ngày càng được phát huy mạnh mẽ hơn.
Trong sinh hoạt Quốc hội, tất cả các ý kiến khác nhau (thậm chí trái chiều) đều được trình bày công khai, minh bạch trước Quốc hội. Khuyến khích tranh luận và tranh luận lại, từ những ý kiến với các góc nhìn khác nhau mà tiếp cận toàn diện, sát với thực tiễn để tìm ra phương án tối ưu cho mỗi vấn đề.
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Quốc hội thảo luận tự do dân chủ nhưng phải tuân theo quy chế làm việc, tuân thủ Nội quy kỳ họp và theo sự điều hành của Chủ tọa. Bởi vậy mà dân chủ đi liền với kỷ luật, kỷ cương.
Quốc hội đã từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động của mình. Chuyên nghiệp hóa hoạt động của Quốc hội phụ thuộc vào hai yếu tố chủ yếu: một là, đại biểu chuyên nghiệp (hoạt động chuyên trách); hai là, công việc của Quốc hội phải mang đầy đủ tính chất chuyên môn nghiệp vụ chuyên lĩnh vực.
Trong đó yếu tố thứ hai đã được hiến định, “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều 69 Hiến pháp 2013). Có thể nói, từ khóa XI đến nay, chất lượng hoạt động của Quốc hội ngày càng được nâng cao, một trong những nguyên nhân là, số lượng, tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách các nhiệm kỳ tăng lên liên tục, từ 23,9% ở khóa XI lên gần 40% của khóa XV.
Dân chủ hóa, chuyên nghiệp hóa hoạt động của Quốc hội là một trong các nhân tố quan trọng để sử dụng tối đa khả năng, năng lực của đại biểu, góp phần nâng cao chất lượng mọi mặt hoạt động của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Đại biểu Quốc hội phát biểu tại hội trường, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Đại biểu Quốc hội phát biểu tại hội trường, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố dự phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố dự phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
3. Cơ cấu và chất lượng đại biểu quyết định quan trọng đến chất lượng hoạt đông của Quốc hội.
Cũng là cơ cấu đại diện nhưng các khóa càng về sau càng được chú trọng nâng cao chất lượng đại biểu. Đến khóa XV thì 99,80% số đại biểu có trình độ đại học và trên đại học. Đi đôi với việc nâng cao trình độ, trí tuệ thì rèn luyện bản lĩnh cũng là một yêu cầu cao đối với đại biểu Quốc hội. Bản lĩnh, nói cho cùng, đó là “7 dám” mà Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã chỉ rõ: dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung. Đại biểu Quốc hội đã và đang phấn đấu theo tinh thần này.
4. Tổ chức bộ máy của Quốc hội hợp lý trong từng giai đoạn phù hợp với hoàn cảnh đất nước
Có thể nói, Quốc hội là cơ quan tiên phong trong việc tổ chức bộ máy tinh gọn theo phương châm: bộ máy gọn nhẹ, nhân lực tối thiểu, hiệu quả công việc tối đa.
Về tổ chức Ủy ban Thường vụ Quốc hội, theo Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội qua các thời kỳ, ngoài các chức danh Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội thì Quốc hội còn có các chức danh: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban.
Về số lượng thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trước đây có từ 23 đến 26 thành viên, nhưng từ khóa IX đến nay chỉ còn từ 13 đến 18 thành viên. Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại kiêm luôn Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban và Trưởng các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Như hiện nay là đã giảm thêm 12 nhân sự cấp cao (tương đương Bộ trưởng) mà khối lượng công việc được giải quyết rất lớn; mặt khác, giảm 12 nhân sự cấp cao nên đã tiết kiệm chi phí rất lớn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Diễn đàn của Quốc hội về hoạt động giám sát, ngày 6/8/2025.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Diễn đàn của Quốc hội về hoạt động giám sát, ngày 6/8/2025.
Về các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ của Quốc hội: trên thế giới có 3 mô hình tổ chức số lượng các cơ quan của Nghị viện/Quốc hội, một là, số lượng các cơ quan của Nghị viện nhiều hơn số bộ của Nội các/Chính phủ; hai là, ngang bằng số bộ của Nội các; ba là, ít hơn số bộ của Nội các. Quốc hội Việt Nam thuộc mô hình thứ ba (từ khóa XII đến nay Quốc hội có10 cơ quan so với 22 bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ).
Vấn đề đáng lưu ý là: Quốc hội có tổ chức ra bao nhiêu cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ thì cũng không làm tăng biên chế, vì thành viên các cơ quan của Quốc hội phải là đại biểu Quốc hội, mà số lượng đại biểu mỗi nhiệm kỳ là “cố định” hoặc có thể giảm, chứ không bao giờ tăng. Việc tăng thêm số cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ của Quốc hội chỉ có ý nghĩa là chuyên môn hóa sâu hơn theo lĩnh vực để thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ của Quốc hội mà thôi.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trao Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp Quốc hội Việt Nam" tặng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước là đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trao Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp Quốc hội Việt Nam" tặng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước là đại biểu Quốc hội.
Từ khi thống nhất đất nước đến nay, Quốc hội đã trải qua 10 khóa, trong đó khóa VI, Quốc hội có 6 cơ quan; 5 khóa từ khóa VII đến khóa XI có 8 cơ quan; 4 khóa, từ khóa XII đến khóa XV có 10 cơ quan. Vừa qua Chính phủ có 22 bộ, cơ quan ngang bộ, về tới Chính phủ còn 17 bộ, cơ quan ngang bộ thì Quốc hội cũng chỉ còn 8 cơ quan.
Nói tóm lại, tổ chức bộ máy của Quốc hội trước hết phải phù hợp với cấu trúc bộ máy chung của Nhà nước; tiếp đó là phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ cùng khối lượng công việc cụ thể của Quốc hội và phải luôn tuân thủ phương châm tinh, gọn, hiệu lực và hiệu quả.
Cử tri xã Vị Thủy, thành phố Cần Thơ tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri. (Ảnh: TTXVN)
Cử tri xã Vị Thủy, thành phố Cần Thơ tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri. (Ảnh: TTXVN)
Cử tri xã Vị Thủy, thành phố Cần Thơ tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri. (Ảnh: TTXVN)
Cử tri xã Vị Thủy, thành phố Cần Thơ tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri. (Ảnh: TTXVN)
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp xúc cử tri sau Kỳ họp thứ 9 tại Cần Thơ. (Ảnh: TTXVN)
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp xúc cử tri sau Kỳ họp thứ 9 tại Cần Thơ. (Ảnh: TTXVN)
5. Hoạt động của Quốc hội phải bảo đảm mối liên hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, lấy dân làm gốc
Suy cho cùng, mọi hoạt động của Quốc hội đều nhằm giải quyết công việc của dân, phục vụ nhân dân. “Quy trình” tiến hành công việc là từ ý kiến, kiến nghị của dân gửi đến Quốc hội; Quốc hội phân loại, sắp xếp theo thời gian, xử lý xong (xây dựng thành luật, pháp lệnh; giám sát giải quyết sự việc; quyết định xong) thì những vấn đề đó trở lại với dân để thực thi trong thực tiễn. Riêng pháp luật còn là “công cụ”, “thước đo” cho quản lý nhà nước.
Trong các nhiệm kỳ Quốc hội ở thế kỷ XXI, trước mỗi kỳ họp, Quốc hội thường tiếp nhận được từ 1.200 đến 1.500 ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước, cá biệt, có kỳ họp số ý kiến, kiến nghị lên đến hơn 2.000. Gần đây nhất, cử tri có ý kiến, kiến nghị nhiều về đất đai, về thuế..., Quốc hội phải tổ chức các kỳ họp bất thường để kịp xử lý các công việc.
Quốc hội nghe báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân gửi đến Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Quốc hội nghe báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân gửi đến Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Với ý nghĩa và thực tiễn đó, không có kinh nghiệm nào tốt bằng kinh nghiệm thực thi nghiêm chỉnh, triệt để quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, “Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri...”.
Tất cả các đại biểu Quốc hội có thường xuyên tiếp xúc cử tri, dành nhiều thời gian làm việc ở nơi cử tri bầu ra mình thì mới có đầy đủ tình hình thực tiễn để đem đến nghị trường những chất liệu tươi mới, thiết thực giúp ích cho Quốc hội.
6. Trong thời kỳ đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng thì phát huy thế mạnh của hoạt động đối ngoại là một lợi thế
Từ khi đất nước thống nhất đến nay, hoạt đông đối ngoại của Quốc hội được mở rộng và phát triển qua từng nhiệm kỳ. Đặc biệt là 5 khóa Quốc hội của thế kỷ XXI các Đoàn cấp cao Quốc hội Việt Nam đã đi thăm, làm việc với Nghị viện ở hầu khắp các châu lục; hội đàm trực tuyến với Nghị viện một số nước. Nghị viện nhiều nước cũng tới thăm, làm việc với Quốc hội Việt Nam. Các cuộc đi, đến gặp gỡ, làm việc đã đọng lại những ấn tượng sâu sắc, những ý kiến gợi mở công việc, những lời nói xúc động lòng người.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn với các đại biểu dự Hội nghị Ban Chấp hành Liên minh Nghị viện Pháp ngữ (APF) tại thành phố Cần Thơ, ngày 22/1/2025.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn với các đại biểu dự Hội nghị Ban Chấp hành Liên minh Nghị viện Pháp ngữ (APF) tại thành phố Cần Thơ, ngày 22/1/2025.
Qua hoạt động đối ngoại, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chọn lọc, tiếp thu được những kinh nghiệm quý báu của Nghị viện các nước, nhất là về kỹ thuật lập pháp và kỹ năng tổ chức các hội nghị quốc tế. Các Đoàn cấp cao Nghị viện các nước đã đánh giá cao tổ chức và kết quả hoạt động của Quốc hội Việt Nam.
Trong đó phải kể đến đánh giá của Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres khi ngài thăm và làm việc với Quốc hội Việt Nam vào tháng 10/2022, “Việt Nam là một tấm gương vô cùng đặc biệt. Tất cả những nỗ lực mà Việt Nam đã thể hiện trong thời gian qua là một sự đột phá. Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào vì tiếng nói của các bạn được tất cả các quốc gia tôn trọng. Các bạn là tấm gương về sự thống nhất để mang lại lợi ích cho người dân”(4).
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đón và hội đàm với Chủ tịch Quốc hội New Zealand Gerry Brownlee thăm chính thức Việt Nam từ ngày 27-31/8/2025.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đón và hội đàm với Chủ tịch Quốc hội New Zealand Gerry Brownlee thăm chính thức Việt Nam từ ngày 27-31/8/2025.
Quốc hội Việt Nam đã có quan hệ với gần 180 Nghị viện/Quốc hội các nước trên thế giới và là thành viên của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Hội đồng Liên Nghị viện ASEAN (AIPA) và nhiều tổ chức quốc tế khác...
Chỉ đạo thực hiện: Trường Sơn - Hồng Vân
Nội dung: TS Bùi Ngọc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Trình bày: Lý Lê - Văn Toản
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN, Cổng thông tin điện tử Quốc hội
