THÍ ĐIỂM “XANH HOÁ” Ở 5 KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT
Sau sáp nhập địa giới hành chính, Thành phố Hồ Chí Minh sở hữu quy mô không gian công nghiệp lớn nhất cả nước, với hệ thống khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) đa dạng nhiều loại hình. Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh có 58 KCN, KCX đang hoạt động với quy mô khoảng 22.400 ha.
Khu chế xuất Tân Thuận.
Khu chế xuất Tân Thuận.
Trước xu thế mới, Thành phố cam kết mạnh mẽ thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và yêu cầu phải “tái cấu trúc xanh” toàn bộ mô hình sản xuất-công nghiệp. Trước mắt, giai đoạn 2023–2025, Thành phố có 5 KCN-KCX được lựa chọn thí điểm chuyển đổi theo mô hình xanh hoá, tuần hoàn.
Đánh giá của KCN Hiệp Phước, một trong 5 KCX, KCN xúc tiến thực hiện chuyển đổi theo mô hình “kinh tế tuần hoàn” cho thấy, nhiều doanh nghiệp trong khu đã từng bước tiếp cận kinh tế tuần hoàn, mô hình “cộng sinh công nghiệp” để thực hiện mô hình KCN sinh thái, tiến tới mục tiêu Net zero. Đơn cử, tại trạm nghiền xi-măng Hiệp Phước của Công ty TNHH Siam City Cement (Việt Nam)-INSEE, danh mục sản phẩm xi-măng “xanh” có hàm lượng phát thải các-bon thấp nhờ tăng cường sử dụng các phụ phẩm tro bay, xỉ thép, giúp giảm hệ số clinker trong xi-măng.
Xử lý chất thải KCN Hiệp Phước.
Xử lý chất thải KCN Hiệp Phước.
KCN XANH - KCN TUẦN HOÀN
Thành phố Hồ Chí Minh chuyển đổi 5 khu công nghiệp thí điểm, phản ánh bức tranh đa dạng của công nghiệp hiện đại và bền vững
KCX Tân Thuận
Tiên phong đầu tư về hạ tầng, chuyển đổi theo hướng thu hút các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao.
KCN Tân Bình
Nằm trong khu dân cư đông đúc, các dự án chuyển dịch sang dịch vụ, kho bãi, thương mại điện tử phục vụ trung tâm thành phố.
KCN Cát Lái
Gắn với hoạt động cảng, phù hợp để chuyển đổi phương tiện vận tải sang điện hóa, tối ưu hóa logistics.
KCN Hiệp Phước
Có quỹ đất và kết nối vùng tốt, phù hợp tiềm năng chuyển đổi thành KCN sinh thái-đô thị-cảng.
KCN Bình Chiểu
Phát triển theo hướng dịch vụ như logistics, kho lạnh, trung tâm thương mại, giới thiệu sản phẩm, giáo dục, y tế.
Đồng thời trạm nghiền này tận dụng nhiệt lượng từ chất thải thông qua hệ thống thu hồi nhiệt thải để thay thế một phần nhiên liệu hóa thạch, giúp giảm đáng kể lượng phát thải carbon và giảm áp lực lên các bãi chôn lấp.
Nhờ áp dụng mô hình “kinh tế tuần hoàn”, 40 doanh nghiệp tại KCN Hiệp Phước đã tiết kiệm được khoảng 43,3 tỷ đồng/năm nhờ giảm mức tiêu thụ điện 6.854 MWh; giảm tiêu thụ nước hơn 151.000 m3, giảm phát thải nhà kính gần 6.000 tấn carbon/năm.
Tương tự, hơn 5 năm qua, Công ty TNHH Juki Việt Nam đóng trong KCX Tân Thuận cũng chuyển đổi từ sử dụng điện năng sang điện mặt trời để giảm phát thải và tiết kiệm chi phí sản xuất. Hiện công ty này có hai hệ thống điện năng lượng áp mái, mỗi hệ thống có công suất 1 MWp. Công ty tính toán, mỗi hệ thống trong một năm phát ra hơn một triệu MWp (trung bình mỗi tháng hơn 100.000 KWp), xấp xỉ 2,5 triệu MWp cho hai hệ thống mỗi năm, giúp tiết kiệm chi phí mỗi tháng 350 triệu đồng.
GIẢI PHÁP XANH HOÁ: TỪ HẠ TẦNG ĐẾN CÔNG NGHỆ VÀ CẢ TƯ DUY QUẢN TRỊ
Quá trình “xanh hoá”, kinh tế tuần hoàn tại các KCX, KCN không chỉ là lắp thêm tấm pin mặt trời hay nâng cấp trạm xử lý nước thải, mà căn bản là thay đổi toàn diện mô hình vận hành của KCN. Đây cũng là áp lực trực diện buộc các KCX, KCN nói chung và các DN, kể cả DN FDI phải thích ứng chuyển mình. Trong đó, các yêu cầu về khí thải, nước thải, bảo vệ môi trường chính là những tiêu chuẩn khắt khe mà các thị trường xuất khẩu tiên tiến và “khó tính” đặt ra.
Phòng lab phân tích chất thải trước khi đưa vào xử lý của Công ty TNHH Siam City Cement (Việt Nam)-INSEE.
Phòng lab phân tích chất thải trước khi đưa vào xử lý của Công ty TNHH Siam City Cement (Việt Nam)-INSEE.
"Mô hình KCN sinh thái là nhu cầu tất yếu nhằm đáp ứng quy định của pháp luật cũng như mệnh lệnh của thị trường. Hiện nay, hàng hóa của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, nhất là thị trường các nước tiên tiến. Hàng hóa ngày càng có xu hướng thân thiện với môi trường, ít tiêu hao nhiên liệu và giảm phát thải".
"Các nhà máy của INSEE đều đạt mức phát thải carbon thấp, phát thải carbon ở mức 374kg/tấn xi-măng vào năm 2024, thấp hơn 44% so với trung bình của ngành. Đây là tiêu chí bắt buộc của công ty trên toàn cầu nhằm sản xuất sạch hơn, giảm phát thải ra môi trường để tiến tới Net zero theo cam kết của Chính phủ Việt Nam".
Và thực tế xanh hoá trong sản xuất công nghiệp hiện nay cần bắt đầu từ “tư duy quản trị” để tối ưu chuỗi quy trình “xanh hoá”. Ông Đào Nguyên Khánh chia sẻ: Trước hết, việc duy trì hệ thống quản lý năng lượng, kiểm toán năng lượng và thực hiện kế hoạch 5 năm giúp INSEE đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam lẫn quy định của Tập đoàn về sử dụng năng lượng tiết kiệm cũng như các yêu cầu ngày càng chặt chẽ liên quan đến kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính. Hiệu quả tiết kiệm năng lượng còn giảm chi phí sản xuất rất lớn, bởi năng lượng luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí vận hành của công ty xi măng.
Công ty TNHH Juki Việt Nam đóng trong KCX Tân Thuận sử dụng điện năng lượng mặt trời để giảm khí thải Các-bon.
Công ty TNHH Juki Việt Nam đóng trong KCX Tân Thuận sử dụng điện năng lượng mặt trời để giảm khí thải Các-bon.
“Kinh phí đầu tư một hệ thống điện năng lượng mặt trời rất tốn kém. Tuy nhiên đối với là doanh nghiệp FDI, tiêu chí xuất khẩu hàng hóa phải có chứng chỉ xanh khi tham gia thị trường xuất khẩu đến châu Âu và các nước trên thế giới cho nên việc đầu tư hệ thống điện áp mái là nhu cầu cấp thiết để giảm phát thải khí các-bon”.
“Chuyển đổi sang mô hình sản xuất thông minh bền vững đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn, ổn định và có tính dài hạn. Tại Việt Nam, nhu cầu chuyển đổi công nghệ, số hóa sản xuất và tuân thủ tiêu chuẩn ESG (Môi trường-Xã hội-Quản trị doanh nghiệp) đang ngày càng gia tăng, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải mở rộng kênh dẫn vốn hiệu quả, minh bạch và linh hoạt”.
Rõ ràng chi phí đầu tư ban đầu cao, đòi hỏi nguồn vốn lớn là những trở ngại đặt ra đối với doanh nghiệp khi tham gia và chấp nhập “xanh hoá” quy trình sản xuất. Song những lợi ích vượt trội mang lại cho bản thân doanh nghiệp, cộng đồng chính là động lực để các doanh nghiệp đưa ra lộ trình và bước đi phù hợp.
Lợi ích chuyển đổi mô hình
KCN Sinh thái
Giảm chi phí năng lượng
Nhờ sử dụng năng lượng tái tạo tại chỗ (Điện mặt trời mái nhà, Biomass...).
Giảm chi phí môi trường
Nhờ mô hình tái sử dụng nước và tuần hoàn chất thải công nghiệp.
Hạn chế rủi ro thuế
Đáp ứng tiêu chuẩn xanh khi xuất khẩu (đặc biệt thị trường EU).
Thu hút đầu tư
Hấp dẫn các tập đoàn đa quốc gia chỉ đầu tư vào khu vực đạt chuẩn môi trường cao.
SẮP XẾP LẠI “BẢN ĐỒ CÔNG NGHIỆP” CỦA THÀNH PHỐ
Việc mở rộng địa giới không chỉ tăng quy mô dân số và không gian đô thị, mà còn tái sắp xếp “bản đồ công nghiệp” của thành phố. Các khu vực vốn thuộc ranh hành chính huyện/quận cũ nay trở thành một phần của thành phố hợp nhất, khiến áp lực về môi trường, logistics và hạ tầng gia tăng rõ rệt. Đã đến lúc, KCN bước vào “vòng đời” mới: sạch hơn, xanh hơn và hướng đến sức khoẻ cộng đồng.
Khu chế xuất Tân Thuận.
Khu chế xuất Tân Thuận.
Nhiều ý kiến cho rằng, giai đoạn 2025- 2030 là “khoảng thời gian vàng” để tái cấu trúc ngành công nghiệp, chuyển sang mô hình tăng trưởng xanh. Nếu không hành động nhanh, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ đối mặt nguy cơ mất đơn hàng, mất FDI chất lượng cao và tụt lại phía sau so với các trung tâm công nghiệp khác ở châu Á.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, những thách thức mà cả chính quyền Thành phố và doanh nghiệp phải hoá giải trên bước đi “xanh hoá” như: Nút thắt pháp lý về đất đai-môi trường, sức ì trong chuyển đổi công nghệ, thiếu nhân lực và chuyên gia về quản lý các-bon, thiếu các quỹ tín dụng xanh dành cho doanh nghiệp.
Như vậy, với 30 năm hình thành và phát triển, các KCX, KCN của Thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong việc đặt nền móng đầu tiên cho việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào Thành phố và cả nước. Đó là một hành trình dài góp phần hình thành sản xuất công nghiệp công nghệ cao, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động cũng như thúc đẩy sự phát triển đô thị ở các khu vực xung quanh song đến lúc cần hình thành những mô hình KCN sinh thái, thông minh để thay thế những KCN cũ kỹ, thâm dụng lao động.
Cho dù xanh hóa các KCN - KCX là quá trình phức tạp, tốn kém, đòi hỏi quyết tâm chính trị mạnh mẽ, sự phối hợp giữa chính quyền-doanh nghiệp-cộng đồng và đặc biệt là năng lực quản trị mới. Nhưng đó cũng là cơ hội vàng để Thành phố Hồ Chí Minh bước vào một chu kỳ phát triển mới-nơi công nghiệp không còn là nguồn gây ô nhiễm, mà là động lực của kinh tế xanh, của tăng trưởng bền vững.
Chỉ đạo sản xuất: Lê Nam Tư
Tổ chức sản xuất: Tùng Quang
Nội dung: Quý Hiền, Cao Tân, Tất Đạt
Ảnh: Tùng Anh, Thế Anh
Trình bày: Tùng Anh