Thực hiện chủ trương của Chính phủ về mục tiêu phát triển bền vững và cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, những năm qua, Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng công bằng và tăng trưởng xanh. Trong bối cảnh đó, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) luôn đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng thể chế, chính sách và huy động nguồn lực cho ứng phó biến đổi khí hậu.
Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam, về vai trò, trách nhiệm và định hướng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm thực hiện cam kết Net Zero hiệu quả.
Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam. (Ảnh: UNDP)
Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam. (Ảnh: UNDP)
Việt Nam là thành viên tích cực của các Công ước quốc tế về biến đổi khí hậu
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hành động khí hậu thế giới, trong khuôn khổ COP28. (Ảnh: TTXVN)
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hành động khí hậu thế giới, trong khuôn khổ COP28. (Ảnh: TTXVN)
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Hành động khí hậu thế giới trong khuôn khổ COP28. (Ảnh: TTXVN)
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Hành động khí hậu thế giới trong khuôn khổ COP28. (Ảnh: TTXVN)
Thủ tướng Phạm Minh Chính và đại diện các nước tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hành động khí hậu thế giới trong khuôn khổ COP28 chụp ảnh chung. (Ảnh: TTXVN)
Thủ tướng Phạm Minh Chính và đại diện các nước tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hành động khí hậu thế giới trong khuôn khổ COP28 chụp ảnh chung. (Ảnh: TTXVN)
Bà Ramla Khalidi:
Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo mạnh mẽ với tư cách là thành viên tích cực của UNFCCC và nhiều diễn đàn toàn cầu khác về khí hậu, đa dạng sinh học và kinh tế tuần hoàn. Việt Nam cũng góp phần thúc đẩy việc thực thi các cam kết khí hậu ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Kể từ năm 2015, Chính phủ Việt Nam liên tục nâng cao Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), minh chứng cho sự tiến triển rõ ràng ở cả sự tham vọng lẫn tiến độ thực thi. Theo bản NDC cập nhật năm 2022, Việt Nam đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính 15,8% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) vào năm 2030 nếu sử dụng nguồn lực trong nước (tăng từ con số 9% đưa ra trước đó), và sẽ tăng lên con số 43,5% nếu có sự hỗ trợ từ quốc tế (con số này cũng tăng lên từ mức trước đó là 27%). UNDP kỳ vọng Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì cách tiếp cận mạnh mẽ, đầy tham vọng này trong NDC 3.0, hướng tới COP30 tại Brazil.
Tại các Hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (COP) gần đây, Chính phủ đã đưa ra những cam kết giảm thiểu đáng kể lượng khí phát thải. Trong đó bao gồm mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Cam kết Khí mê-tan Toàn cầu, không xây dựng nhà máy điện than mới và giảm dần việc sử dụng than, Tuyên bố Rừng Glasgow và Tuyên bố Chính trị JETP.
Về thích ứng, Việt Nam đã tham gia Liên minh Hành động Thích ứng, ủng hộ Mục tiêu Toàn cầu về Thích ứng và vận động tăng cường tài chính khí hậu cho các nước đang phát triển, bao gồm cả V20. Những hành động này nhấn mạnh quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy hành động ứng phó với biến đổi khí hậu cả trong nước và quốc tế.
Bà Ramla Khalidi:
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc lồng ghép các cam kết quốc tế về khí hậu vào khuôn khổ pháp lý và chính sách quốc gia. Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2020 đã tạo cơ sở pháp lý tổng thể cho việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng và huy động tài chính cho khí hậu, cùng với các nghị định và hướng dẫn kỹ thuật quan trọng về hệ thống đo lường, báo cáo, thẩm định (MRV), thị trường carbon và kế hoạch giảm nhẹ phát thải theo ngành.
Các chiến lược cụ thể theo ngành, chẳng hạn như Chiến lược quốc gia về biến đổi Khí hậu, Quy hoạch Tổng thể năng lượng quốc gia và Quy hoạch phát triển điện VIII, đều phù hợp chặt chẽ với các mục tiêu Phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) và các mục tiêu giảm thiểu khác mà Việt Nam đã cam kết tại COP26.
Việt Nam cũng đã thúc đẩy công tác chuyển đổi năng lượng công bằng thông qua Kế hoạch thực hiện Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), trong đó kết hợp cơ chế quản trị để phối hợp cùng nhiều bên liên quan.
Về thích ứng, Kế hoạch thích ứng quốc gia và việc lồng ghép khả năng phục hồi khí hậu vào các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh và ngành cũng giúp cung cấp một khuôn khổ mang tính cấu trúc trong việc thực thi các cam kết đề ra.
Việt Nam vẫn cần tăng tốc thực thi pháp luật, mở rộng đầu tư tư nhân và quốc tế, đồng thời tăng tính đồng bộ giữa các chính sách khí hậu, năng lượng và phát triển. UNDP, với vai trò là Cơ quan hỗ trợ ban thư ký cho JETP, nhận thấy tiềm năng to lớn của Việt Nam trong việc phát huy đà tiến bộ này.
UNDP tự hào đã hỗ trợ Việt Nam trong các bước tiến chính sách này, có thể kể đến những hỗ trợ về mặt kỹ thuật trong quá trình nâng cao Đóng góp quốc gia tự quyết (NDC), xây dựng Kế hoạch thích ứng quốc gia, cho đến việc hỗ trợ Việt Nam thực hiện Kế hoạch huy động nguồn lực JETP.
Mặc dù có những tiến bộ đáng kể, việc tiếp tục đẩy mạnh thực thi quy định, mở rộng đầu tư tư nhân và quốc tế, cùng với sự nhất quán hơn về chính sách trong các chương trình nghị sự về khí hậu, năng lượng và phát triển sẽ đóng vai trò là những yếu tố then chốt.
Việt Nam vẫn cần tăng tốc thực thi pháp luật, mở rộng đầu tư tư nhân và quốc tế, đồng thời tăng tính đồng bộ giữa các chính sách khí hậu, năng lượng và phát triển. UNDP, với vai trò là Cơ quan hỗ trợ ban thư ký cho JETP, nhận thấy tiềm năng to lớn của Việt Nam trong việc phát huy đà tiến bộ này trong NDC 3.0 với các mục tiêu thậm chí còn tham vọng hơn, khả thi hơn, được hỗ trợ bởi các hệ thống tài chính và giám sát mạnh mẽ.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý dựa trên nền tảng pháp lý vững chắc
Bà Ramla Khalidi:
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với phát triển bền vững thông qua các đạo luật và khuôn khổ pháp lý chủ chốt.
Tháng 6/2025, Quốc hội thông qua Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (sửa đổi), xóa bỏ các rào cản pháp lý và tăng cường các ưu đãi cho hiệu quả năng lượng. Luật sửa đổi được thiết kế để thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, tăng cường an ninh năng lượng và thu hút đầu tư quốc tế, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng.
Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, với 425/426 đại biểu tán thành (chiếm 88,91% tổng số đại biểu). (Ảnh: DUY LINH)
Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, với 425/426 đại biểu tán thành (chiếm 88,91% tổng số đại biểu). (Ảnh: DUY LINH)
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 lần đầu tiên đưa ra quy định về tín dụng xanh và trái phiếu xanh. Luật định nghĩa tín dụng xanh là việc cho vay đối với các dự án thuộc các lĩnh vực chính, bao gồm sử dụng tài nguyên hiệu quả, thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý chất thải, khắc phục ô nhiễm, phục hồi hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và các hoạt động khác có lợi cho môi trường. Luật cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam phải quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cho vay của mình.
Để triển khai Luật này, Việt Nam đã ban hành Bộ Tiêu chí phân loại xanh quốc gia đầu tiên theo Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg, có hiệu lực từ tháng 7/2025. Đây là cột mốc quan trọng, thiết lập bộ tiêu chí môi trường chính thức để xác định các dự án đủ điều kiện nhận tài chính xanh.
Bằng cách xác định thế nào là "xanh", bộ tiêu chí phân loại này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi bền vững của các ngành kinh tế chủ chốt và điều chỉnh các tiêu chuẩn trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế tốt nhất. Điều này đánh dấu một nền tảng vững chắc, tuy nhiên khuôn khổ pháp lý vẫn chưa “hoàn thiện”.
Có thể kể đến: Trách nhiệm vẫn còn phân tán giữa các bộ, ngành, và thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, đặc biệt là trong việc giám sát các đơn vị cung cấp dịch vụ xác minh độc lập; các ưu đãi như giảm thuế, bảo lãnh và cho vay ưu đãi còn nhiều hạn chế. Do đó, cần có hướng dẫn rõ ràng hơn về thẩm định dự án và các tiêu chí kỹ thuật để thu hút thêm đầu tư từ khu vực tư nhân.
Nhìn tổng thể, Việt Nam đã đạt tiến bộ lớn, song cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật, tăng cường phối hợp liên ngành và phát triển các cơ chế khuyến khích hiệu quả hơn để khai mở toàn bộ tiềm năng của tài chính xanh cũng như các dự án.
Bà Ramla Khalidi:
Việt Nam đang xây dựng thị trường carbon và soạn thảo các quy định về quản lý và sử dụng tín chỉ carbon. Thị trường carbon có thể trở thành một công cụ quan trọng để cắt giảm phát thải một cách hiệu quả về chi phí, tạo ra các dòng tài chính mới, thúc đẩy các công nghệ phát thải thấp và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Bộ Tài chính đang xây dựng khung pháp lý và quản trị cho sàn giao dịch tín chỉ carbon trong nước, được thiết kế vận hành tương tự như sàn chứng khoán. Một khuôn khổ pháp lý toàn diện dự kiến sẽ hoàn thiện vào cuối năm 2025, tập trung vào tính minh bạch và bảo vệ tài nguyên.
Thị trường carbon có thể trở thành một công cụ quan trọng để cắt giảm phát thải một cách hiệu quả về chi phí, tạo ra các dòng tài chính mới, thúc đẩy các công nghệ phát thải thấp và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Để khuyến khích sự tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực tư nhân, chính phủ nên công bố lộ trình định giá carbon quốc gia với mốc thời gian rõ ràng cho việc triển khai theo từng giai đoạn Hệ thống giao dịch phát thải bắt buộc (ETS) và hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc tạo ra và giao dịch tín chỉ trong nước cũng như quốc tế.
Các định hướng chính sách then chốt gồm:
- Đánh giá mức độ sẵn sàng thực hiện Điều 6 và xây dựng các khuôn khổ pháp lý hỗ trợ.
- Phù hợp với các tiêu chuẩn toàn cầu về giao dịch tín chỉ carbon quốc tế, kết nối hệ thống đăng ký quốc gia với UNFCCC và các tổ chức như Gold Standard, Verra, ART-TREES;
- Xây dựng các quy trình MRV mạnh mẽ và tích hợp sổ đăng ký carbon với kiểm kê khí nhà kính quốc gia.
- Thiết lập các quy trình ủy quyền rõ ràng theo Điều 6 và xác định vai trò cũng như điều kiện đủ cho các bộ và cơ quan chuyên ngành.
Bà Ramla Khalidi:
Cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam, công bố tại COP26, phù hợp với Thỏa thuận Paris và được triển khai theo cách tiếp cận “toàn chính phủ”. Các Chiến lược tăng trưởng xanh và Biến đổi khí hậu bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ ngành, tích hợp với các lĩnh vực trọng yếu như năng lượng, giao thông, nông nghiệp và tài chính.
Các chiến lược này đặt ra một tầm nhìn dài hạn rõ ràng: Phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, với các mục tiêu trung hạn cho đến năm 2030. Các lĩnh vực trọng tâm bao gồm mở rộng năng lượng tái tạo, huy động tài chính xanh, phát triển nền kinh tế tuần hoàn và xây dựng cơ sở hạ tầng chống biến đổi khí hậu. Bộ tiêu chí phân loại xanh quốc gia là một bước tiến quan trọng hướng tới huy động đầu tư bền vững và tạo môi trường thuận lợi cho trái phiếu xanh, thị trường carbon và nhiều công cụ khác.
Tuy nhiên, việc thực thi vẫn chưa đồng đều. Các kế hoạch hành động có nguồn vốn bảo đảm khác nhau giữa cấp Trung ương và địa phương, trong khi năng lực thực hiện ở cấp tỉnh và ngành còn hạn chế.
Nhìn chung, Việt Nam đã vạch ra lộ trình rõ ràng cho tương lai dài hạn; thách thức hiện nay là thu hẹp khoảng cách tài chính và đẩy nhanh thực thi ở mọi cấp độ.
Bà Ramla Khalidi
Để đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng như tham gia JETP (2022) và phê duyệt Quy hoạch Điện VIII sửa đổi (2025) với các chỉ tiêu năng lượng tái tạo tham vọng.
Từ kinh nghiệm quốc tế, có ba ưu tiên pháp lý hàng đầu:
- Thứ nhất, thiết lập các mục tiêu phát thải mang tính ràng buộc pháp lý, được hỗ trợ bởi các nhiệm vụ thể chế rõ ràng, và trao quyền cho một cơ quan điều phối để hỗ trợ giám sát và cung cấp những báo cáo độc lập.
- Thứ hai, đảm bảo tính ổn định thị trường dài hạn thông qua các quy tắc có thể dự đoán được, khung khổ đấu giá, trái phiếu xanh, tài chính ưu đãi và các công cụ chia sẻ rủi ro.
- Thứ ba, tích hợp (hoặc lồng ghép) luật chuyển đổi công bằng để bảo vệ người lao động và cộng đồng phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, bao gồm đào tạo lại, đa dạng hóa khu vực và đưa ra những quyết định bao trùm.
Tổ chức sản xuất: NAM ĐÔNG
Nội dung: QUỲNH TRANG
Ảnh: UNDP, BÁO NHÂN DÂN, TTXVN
Trình bày: LÝ LÊ