Tín chỉ carbon rừng đang trở thành “đơn vị giá trị” mới của kinh tế xanh, mở ra nguồn lực tài chính cho mục tiêu Net Zero 2050. Với lợi thế rừng nhiệt đới và quyết tâm cải cách, Việt Nam có cơ hội biến mỗi cánh rừng thành “ngân hàng xanh” cho sinh kế cộng đồng, nơi giá trị môi trường được chuyển hóa thành giá trị kinh tế. Khi thị trường carbon dần hình thành, rừng không chỉ là lá phổi của hành tinh, mà còn là nền tảng cho tăng trưởng xanh và phát triển bền vững quốc gia.
Trước xu thế đó, loạt bài “Tín chỉ carbon rừng – Cơ hội vàng cho Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng xanh” tập trung lý giải cơ chế vận hành của thị trường carbon, phân tích tiềm năng và những điều kiện để Việt Nam khai mở nguồn lực tài chính xanh từ rừng; đồng thời làm rõ vai trò của thể chế, khoa học và cộng đồng trong hành trình biến rừng thành trụ cột kinh tế xanh của tương lai.
BÀI 2: KHI RỪNG CÓ CHỦ, SINH KẾ XANH NẢY MẦM
Nằm giữa dãy Trường Sơn hùng vĩ, Cao Quảng (huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình) trước đây, nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị đang chứng minh một điều giản dị mà lớn lao: khi rừng thực sự có chủ, người dân sẽ giữ rừng bằng trách nhiệm và cả niềm tin vào sinh kế xanh. Từ giao đất, giao rừng đến hình thành các nhóm chủ rừng và hợp tác xã lâm nghiệp cộng đồng, mô hình “rừng có chủ” nơi đây đang mở ra hướng đi mới cho kinh tế rừng bền vững và thị trường carbon Việt Nam.
Xã Cao Quảng, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị là một thung lũng xanh mướt nằm lọt giữa hơn 11.000ha rừng tự nhiên. Thung lũng rộng khoảng 120km², ôm lấy dòng sông Nan uốn lượn, nơi hơn 3.300 người dân sinh sống, canh tác nông-lâm nghiệp và gìn giữ những cánh rừng được xem là “lá phổi xanh” của vùng Bắc Trung Bộ.
Ở nơi đây, rừng không chỉ là tấm lá chắn thiên nhiên mà còn là nguồn sống, là ký ức văn hóa và là niềm tự hào. Rừng cho người dân gỗ, củi, măng, quả, thảo dược; suối trong rừng mang nước về ruộng đồng, tưới mát cho ngô, lúa, lạc… Rừng giúp giữ đất, ngăn xói mòn, chống lũ, điều hòa khí hậu, hấp thụ khí C02 và thải ra oxy – những giá trị tưởng chừng vô hình nhưng là trụ cột của sinh kế và môi trường.
Nhắc đến Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị là nhắc đến sông Nan, khởi nguồn từ vùng biên giới Việt-Lào, chảy uốn lượn qua làng bản, chia xã thành hai vùng. Hai bên bờ sông là ruộng bậc thang, những cánh đồng ngô xanh mướt. Dưới nước có cá chình, cá mát, cá chạch – nguồn protein quý giá của người dân miền núi.
Phía xa là động Hang Tiên, với vòm hang cao 30m, thạch nhũ lấp lánh – biểu tượng tự nhiên của Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị, được người dân ví như “trái tim rừng Trường Sơn”.
Trước những năm 2000, rừng ở Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị từng bị tàn phá nghiêm trọng. Lâm trường quốc doanh được giao quản lý hơn 10.000ha nhưng hoạt động kém hiệu quả, không đủ trữ lượng khai thác, trong khi người dân thiếu đất sản xuất. “Rừng chung” dẫn đến “rừng không ai giữ”, gỗ bị khai thác trái phép, đất bị lấn chiếm, lâm sản cạn kiệt. Năm 2006, Chính phủ ra Quyết định 342/QĐ-TTg giải thể Lâm trường Cao Quảng, giao đất rừng trở lại cho địa phương quản lý.
Bước ngoặt đến vào năm 2007-2008, khi huyện Tuyên Hóa triển khai dự án lập bản đồ địa chính và giao đất lâm nghiệp cho sáu tỉnh Bắc Trung Bộ theo Quyết định 672/QĐ-TTg. Hơn 8.247ha đất rừng được giao cho 525 hộ dân, chiếm 87% tổng số hộ toàn xã. Cùng với đó, người dân lần đầu tiên được cầm trong tay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng – khởi đầu cho hành trình “rừng có chủ”.
Rừng Việt Nam – nguồn hấp thụ carbon tự nhiên, mở ra tiềm năng phát triển thị trường tín chỉ carbon và kinh tế xanh bền vững.
Rừng Việt Nam – nguồn hấp thụ carbon tự nhiên, mở ra tiềm năng phát triển thị trường tín chỉ carbon và kinh tế xanh bền vững.
Sau giao đất, 100% hộ dân trồng lại rừng, chủ yếu là keo và một số loài bản địa. Từ chỗ trông chờ vào rừng, người dân trở thành chủ thể của rừng: tự tổ chức tuần tra, báo kiểm lâm khi có vi phạm, cùng nhau lập “Nhóm sở thích bảo vệ rừng” – tiền thân của các nhóm chủ rừng sau này.
Thách thức lớn nhất không nằm ở chính sách, mà là thay đổi tư duy: từ “khai thác rừng để sống” sang “giữ rừng để sống tốt hơn”. Chính quyền xã, cùng các tổ chức như SPERI và SODI, đã đồng hành giúp người dân đo đạc, lập bản đồ, phân định ranh giới. Đến năm 2022, 186 hộ đã hoàn tất phân giới; xã đặt mục tiêu 525/525 hộ hoàn thành vào 2026.
Cùng lúc, 65 nhóm chủ rừng cộng đồng được hình thành, với quy chế hoạt động cụ thể: bảo vệ-phòng cháy-trồng cây bản địa-khai thác lâm sản phụ. Mỗi nhóm cử đại diện tham gia họp định kỳ, lập sổ nhật ký rừng, chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc, tuần tra. Rừng vì thế dần phục hồi, tán xanh dày đặc hơn, thú rừng quay trở lại, suối trong hơn.
Chị Đinh Thị Loan, chủ rừng thôn Sơn Thủy, kể: “Trước kia phá rừng nhiều lắm, giờ được giao rừng rồi thì ai cũng giữ. Mùa hạt dẻ năm nay được mùa, mỗi nhà nhặt được cả chục triệu, có nhà hơn hai chục triệu. Dân phấn khởi lắm, đi tuần rừng ai cũng vui.”
Những nỗ lực bảo vệ rừng đã tạo nền tảng để Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị tiến thêm một bước: làm kinh tế rừng gắn với tín chỉ carbon.
Từ năm 2023, xã tham gia Chương trình giảm phát thải khí nhà kính 6 tỉnh Bắc Trung Bộ (EAPA), nguồn vốn do Ngân hàng Thế giới (WB) chi trả cho Chính phủ Việt Nam. Bình quân mỗi năm, người dân Cao Quảng nhận gần 3 tỷ đồng từ chương trình này, cùng hơn 3 tỷ đồng khác từ khai thác lâm sản phụ như mây, thuốc nam, mật ong, hạt dẻ…
Khoản thu nhập tuy không lớn, nhưng có giá trị cả về vật chất lẫn tinh thần: nó chứng minh rằng, “rừng sống” có thể tạo “kinh tế sống”.
Năm 2024, Cao Quảng thành lập Hợp tác xã Lâm nghiệp Cộng đồng, với mục tiêu liên kết các chủ rừng, cùng thực hiện các tiêu chuẩn MRV (đo đạc- báo cáo-thẩm định), chuẩn bị điều kiện để tham gia thị trường carbon Việt Nam theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Quyết định 232/QĐ-TTg (24/1/2025). Hợp tác xã là cầu nối giữa người dân-chính quyền-doanh nghiệp-các tổ chức hỗ trợ quốc tế. Không chỉ trồng rừng, hợp tác xã còn lập kế hoạch đánh giá trữ lượng carbon, phục hồi rừng tự nhiên, phát triển sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ.
Ông Nguyễn Quang Huy nhấn mạnh: “Chúng tôi coi tín chỉ carbon không chỉ là giá trị tài chính, mà còn là công cụ để tái đầu tư cho rừng. Khi có thu nhập từ carbon, người dân sẽ tự nguyện bảo vệ rừng, chính quyền không phải ‘đi vận động’. Đó mới là bền vững thật sự”.
Đến nay, toàn xã có hơn 9.000ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên, trong đó gần 8.900ha được giao cho hộ gia đình, hợp tác xã. Tỷ lệ che phủ đạt 85,44%. Hàng chục km đường tuần tra được mở mới, nhiều điểm chòi canh được dựng bằng kinh phí cộng đồng. Cảnh quan rừng Cao Quảng thay đổi rõ rệt từ những đồi trọc xưa kia nay phủ màu xanh ngút mắt.
Câu chuyện của Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị không dừng lại ở việc giữ rừng, mà còn mở ra hướng đi mới cho phát triển nông thôn miền núi: lấy rừng làm trung tâm, lấy cộng đồng làm chủ thể.
Mô hình “rừng có chủ” giúp giảm gánh nặng cho bộ máy quản lý, đồng thời khơi dậy trách nhiệm công dân ở cấp thôn, bản. Khi quyền lợi được gắn với trách nhiệm, người dân trở thành “người gác rừng chuyên nghiệp” mà không cần biên chế.
Từ thực tiễn triển khai mô hình “rừng có chủ”, Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị đã đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc không chỉ có giá trị cho địa phương, mà còn gợi mở hướng đi cho nhiều vùng rừng khác của Việt Nam.
Từ những đồi trọc xưa kia nay cảnh quan rừng Cao Quảng đã phủ màu xanh ngút mắt. (Ảnh: Viện nghiên cứu và phát triển Việt Nam)
Từ những đồi trọc xưa kia nay cảnh quan rừng Cao Quảng đã phủ màu xanh ngút mắt. (Ảnh: Viện nghiên cứu và phát triển Việt Nam)
Trước hết, vai trò của chính quyền cơ sở là yếu tố quyết định thành công. Khi cấp ủy, chính quyền thực sự vào cuộc, sát cánh cùng người dân trong từng bước – từ đo đạc, phân định ranh giới đến hướng dẫn kỹ thuật trồng cây, tuần tra, phòng cháy thì rừng không chỉ được bảo vệ tốt hơn, mà còn trở thành tài sản chung gắn kết cả cộng đồng. Ở đây, cán bộ xã và kiểm lâm địa bàn không đứng ngoài quan sát, mà tham gia cùng dân, đi rừng, tuần rừng, trực tiếp chứng kiến sự thay đổi của từng khoảnh đất. Chính sự đồng hành ấy đã khiến người dân cảm nhận rõ ràng rằng họ không “một mình giữ rừng”, mà được bảo vệ, được công nhận và được trao niềm tin.
Thứ hai, khi rừng thực sự mang lại giá trị kinh tế thiết thực, ý thức và hành động của người dân thay đổi rõ rệt. Từ chỗ coi rừng là gánh nặng, họ chuyển sang xem rừng là nguồn thu, là tài sản phải đầu tư và chăm sóc. Những khoản chi trả từ Chương trình giảm phát thải EAPA hay từ thu hái lâm sản phụ dù chưa lớn đã chứng minh rằng “giữ rừng cũng có thể làm giàu”. Khi rừng đem lại lợi ích cụ thể, người dân tự giác tuần rừng, phòng cháy, ngăn khai thác trái phép mà không cần vận động, tuyên truyền nhiều như trước. Cán bộ kiểm lâm cũng giảm đáng kể áp lực, chuyển từ “bắt vi phạm” sang “hỗ trợ kỹ thuật”, biến công tác quản lý rừng từ hành chính sang hợp tác tự nguyện.
Bài học thứ ba, mang tính lâu dài và bền vững nhất, là sự minh bạch trong cơ chế chia sẻ lợi ích. Người dân chỉ có thể yên tâm gắn bó với rừng nếu họ được thấy rõ quyền lợi, được tham gia giám sát, được chia sẻ công bằng thành quả. Ở Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị, mọi khoản chi từ dự án, từ chương trình hỗ trợ hay từ lợi tức lâm sản đều được công khai tại các cuộc họp thôn, nhóm chủ rừng. Chính sự minh bạch ấy đã tạo ra niềm tin và tinh thần đồng thuận nền tảng của mô hình kinh tế carbon cộng đồng mà Việt Nam đang hướng tới.
Từ ba bài học trên, có thể thấy, Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị không chỉ giữ rừng bằng ý thức, mà bằng lợi ích và niềm tin. Khi người dân có quyền, có lợi, có tiếng nói, thì rừng trở thành của họ, và họ trở thành những “người giữ vốn xanh” tự nhiên, hiệu quả hơn bất kỳ biện pháp hành chính nào. Đây cũng chính là giá trị cốt lõi để Việt Nam tiến tới một nền kinh tế carbon công bằng và bao trùm, nơi cộng đồng được đặt ở trung tâm của mọi chính sách phát triển xanh.
Trong 3 năm gần đây, xã Cao Quảng cũ liên tục được nhận hỗ trợ từ Chương trình EAPA và ngân sách bảo vệ rừng, tổng thu nhập tăng thêm khoảng 6 tỷ đồng/năm – con số đáng kể đối với một xã vùng cao. Các tuyến rừng giáp ranh trước kia dễ bị lấn chiếm nay được quản lý chặt chẽ; nhiều hộ chuyển từ trồng keo sang trồng xen cây bản địa có giá trị cao.
Quan trọng hơn, ý thức “rừng là của dân” đã ăn sâu vào từng gia đình. Họ hiểu rằng bảo vệ rừng chính là bảo vệ tương lai của con em mình.
Những thành quả này không chỉ góp phần nâng độ che phủ rừng, mà còn tạo mô hình kinh tế rừng cộng đồng có thể nhân rộng. Mô hình đã lan tỏa sâu rộng trong toàn xã, được nhiều hộ dân ở các thôn khác tìm hiểu, học hỏi cách tổ chức nhóm chủ rừng, quy trình tuần tra và mô hình vườn ươm cây bản địa. Từ đó, nhận thức về giá trị kinh tế- sinh thái của rừng ngày càng được củng cố, góp phần khẳng định phương châm: “Giữ rừng cũng là làm kinh tế”.
Từ hành trình hai mươi năm, xã Cao Quảng cũ chứng minh một chân lý giản dị mà sâu sắc: trao quyền cho dân rừng sẽ sống.
Khi rừng được định giá bằng tín chỉ carbon, khi lợi ích của người giữ rừng được ghi nhận, rừng không chỉ tồn tại mà sẽ phát triển bền vững. Cao Quảng có thể chưa phải mô hình hoàn hảo, nhưng là minh chứng rõ ràng nhất cho hiệu quả của chính sách “xã hội hóa bảo vệ rừng” và định hướng tăng trưởng xanh của Việt Nam.
Trong tương lai gần, khi sàn giao dịch tín chỉ carbon Việt Nam đi vào hoạt động, những khu rừng như ở Cao Quảng trước đây nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị sẽ trở thành “vốn xanh” – vừa giúp Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero 2050, vừa tạo nguồn sinh kế xanh cho hàng vạn hộ dân miền núi.
Tổ chức sản xuất: Trường Sơn
Nội dung: Minh Phương, Khánh Lan
Trình bày: Thuỳ Linh
Nguồn ảnh: Viện tư vấn phát triển CODE
Xuất bản: 13/10/2025