Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

 

Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng không chỉ trong nước mà còn cả quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

Giáo sư Đỗ Tất Lợi sinh năm 1919 tại làng Phù Xá, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên (nay là xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) trong một gia đình nông dân.

Được công nhận học vị Tiến sĩ ở Liên Xô (1968) mà không trải qua quá trình nghiên cứu sinh hay thực tập sinh, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đỗ Tất Lợi là một trong số ít những nhà khoa học được quốc tế vinh danh bởi những đóng góp to lớn trong lĩnh vực dược học kể từ thập niên 60 của thế kỷ trước. Với công trình Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, được thực hiện từ năm 1945 đến 1965, là thành quả từ sự kiên trì, tự học và tình yêu của ông đối với dược liệu. Công trình đã làm rạng danh nền dược học Việt Nam và được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.

Người đầu tiên mở hiệu thuốc duy nhất

không dùng tiếng Pháp

Ảnh minh họa. (Nguồn: Báo Sức khỏe và Môi trường)

Ảnh minh họa. (Nguồn: Báo Sức khỏe và Môi trường)

Tốt nghiệp bậc Tú tài vào năm 1939, Đỗ Tất Lợi quyết định thi vào Trường đại học Y Dược Hà Nội. Ông dành nhiều thời gian tìm hiểu về y học dân tộc thông qua các tài liệu, sách báo xuất bản công khai, hoặc là thông qua những thầy lang ở khắp mọi con phố, làng quê. Ông đã nung nấu ý định sản xuất thuốc từ cây cỏ sẵn có trong thiên nhiên theo phương pháp hiện đại.

Năm 1944, Đỗ Tất Lợi lấy bằng Dược sĩ hạng ưu và ra hành nghề. Không giống nhiều hiệu thuốc Tây lấy tên Tây “Pharmacie” lúc bấy giờ, Đỗ Tất Lợi chọn cho hiệu thuốc của mình một cái tên rất Việt, mang đậm bản sắc dân tộc: Hiệu thuốc Tây Mai Lĩnh. Việc dũng cảm lấy tên hiệu thuốc bằng chữ Quốc ngữ, thể hiện ông là người Việt Nam, một người yêu nước, có bản lĩnh. Sau này ông viết lại: “Có thể nói rằng cho đến cả sau Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến toàn quốc, hiệu thuốc tây của tôi là hiệu thuốc duy nhất không dùng tiếng Pháp để đặt tên hiệu dù chỉ một chữ Pharmacie” (Hồi ký của GS Đỗ Tất Lợi, tài liệu lưu hành lưu hành nội bộ do học trò – dược sĩ Nguyễn Trọng Nghĩa cung cấp).

Ở khía cạnh chuyên môn, Hiệu thuốc Tây Mai Lĩnh không chỉ bán thuốc tây, mà còn bán một số thuốc được chế biến từ cây cỏ có sẵn trong thiên nhiên. Điều ấy sớm khẳng định quan điểm khác biệt của ông.

Hiệu thuốc của ông còn là cơ sở để tuyên truyền, cất giấu tài liệu của Việt Minh. Ông cũng thường xuyên ủng hộ tiền, thuốc cho những chiến sĩ hoạt động bí mật.

Pháp luật - GS. TS Đỗ Tất Lợi và những khoảnh khắc đời thường

Giáo sư Đỗ Tất Lợi bên cây thuốc trinh nữ hoàng cung. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Đỗ Tất Lợi bên cây thuốc trinh nữ hoàng cung. (Ảnh tư liệu)

Đỗ Tất Lợi

Có thể nói rằng cho đến cả sau Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến toàn quốc, hiệu thuốc tây của tôi là hiệu thuốc duy nhất không dùng tiếng Pháp để đặt tên hiệu dù chỉ một chữ Pharmacie.
----------------------
(Hồi ký của GS Đỗ Tất Lợi, tài liệu lưu hành lưu hành nội bộ do học trò – dược sĩ Nguyễn Trọng Nghĩa cung cấp).

Trong các chuyến đi tìm kiếm cây thuốc, trong balô của ông luôn có sổ ghi chép, bút, máy ảnh và một chiếc túi nhỏ. (Ảnh: Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam)

Trong các chuyến đi tìm kiếm cây thuốc, trong balô của ông luôn có sổ ghi chép, bút, máy ảnh và một chiếc túi nhỏ. (Ảnh: Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam)

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngày 19/12 thì đến ngày 29/12/1946, Đỗ Tất Lợi đóng cửa Hiệu thuốc Tây Mai Lĩnh, tham gia kháng chiến với lòng nhiệt thành phơi phới.

Hành động của ông cũng giống hành động của nhiều trí thức bấy giờ: Đỗ Xuân Hợp bỏ lại phòng khám và cơ ngơi sang trọng; Trần Hữu Tước, Trần Đại Nghĩa… từ bỏ công việc và chế độ hậu hĩnh ở Pháp về nước. Động lực lớn nhất của ông Đỗ Tất Lợi vào thời điểm ấy có lẽ chỉ gói gọn trong hai từ “Đất nước”.

Dược sĩ Đỗ Tất Lợi chủ động tìm gặp bác sĩ Vũ Văn Cẩn (Cục trưởng Cục Quân y) để đề nghị tổ chức bào chế và tự sản xuất thuốc, bảo đảm thuốc cho quân đội và nhân dân. Khoảng thời gian sau đó ông là cán bộ chủ chốt của Viện Khảo cứu và Chế tạo dược phẩm (thời gian đầu do dược sĩ Vũ Công Thuyết phụ trách, sau đó dược sĩ Đỗ Tất Lợi phụ trách trong suốt thời kỳ kháng chiến).

Ngoài ra ông còn là Giám đốc chuyên môn của Nha Quân dược, thuộc Bộ Quốc phòng. Suốt những năm kháng chiến, nơi núi rừng Việt Bắc, ông đã cùng cán bộ ngành dược vượt qua những khó khăn, hiểm nguy để nghiên cứu và sản xuất một số hóa chất, cất cồn cao độ, cất tinh dầu và một số chất được chiết xuất từ các loại cây trong thiên nhiên, nhằm sử dụng cho cứu chữa thương bệnh binh và nhân dân.

Trong các chuyến đi tìm kiếm cây thuốc, trong balô của ông luôn có sổ ghi chép, bút, máy ảnh và một chiếc túi nhỏ.

Dành trọn thời gian

nghiên cứu sách Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam

Hòa bình lập lại ở miền bắc (1954), dược sĩ Đỗ Tất Lợi được cử về trường Đại học Y Dược Hà Nội và đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm bộ môn Dược liệu-Thực vật. Bắt tay vào giảng dạy, nhận thấy tên những vị thuốc dùng trong tài liệu cho sinh viên vẫn ghi theo tiếng Pháp và tiếng Latin, ông đã nhanh chóng chuyển đổi toàn bộ sang tên Việt và Latin.

Đồng thời với giảng dạy, ông còn dành thời gian nghiên cứu, chiết xuất thuốc chữa tim Neriolin từ lá cây trúc đào, nghiên cứu dùng nha đam chữa lỵ amip thay emetin…

Đặc biệt, ông dành phần lớn thời gian và tâm huyết của mình vào việc biên soạn bộ sách Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam (gồm 2 tập, hoàn thành vào năm 1956-1957), phục vụ hiệu quả công tác giảng dạy.

Bộ sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" được thế giới biết đến và đánh giá cao, tên tuổi dược sĩ Đỗ Tất Lợi đã làm rạng danh cho nền Dược học Việt Nam.

Năm 1961, trường Đại học Dược Hà Nội được thành lập, dược sĩ Đỗ Tất Lợi được cử làm Chủ nhiệm bộ môn Dược liệu. Năm 1965, ông hoàn thành bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (gồm 6 tập, tập 1 xuất bản vào năm 1962). Có thể nói công trình đồ sộ nhất đó trong nghiên cứu khoa học dược liệu là sự hiện thực hóa mong ước của ông rằng, một ngày nào đó nền y dược Việt Nam sẽ rạng ngời thế giới. Cũng như “Phương pháp Tôn Thất Tùng” về phẫu thuật gan làm chấn động thế giới vào năm 1962, thì với sự khởi đầu của bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, được thế giới biết đến và đánh giá cao, tên tuổi dược sĩ Đỗ Tất Lợi đã làm rạng danh cho nền Dược học Việt Nam.

Tập 1 của bộ sách được in lần đầu tiên vào năm 1962, tập 6 năm 1965. Ngay khi đó, Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch đã nhận xét: “Bộ sách rất tốt, rất dễ hiểu, nội dung phong phú, cái hay ở đây là trình bày kinh nghiệm bản thân cùng với kinh nghiệm dân gian và kinh nghiệm nước ngoài” (Hàm Châu, Trí thức tinh hoa Việt Nam đương đại – Một số chân dung, Nxb Trẻ, 2014, tr.297).

Dược sĩ Đỗ Tất Lợi trong quá trình đi tìm các cây thuốc quý ở Sapa năm 1959.

Dược sĩ Đỗ Tất Lợi trong chuyến đi thực tế tìm các cây thuốc quý ở Sapa năm 1959. (Ảnh: Tư liệu)

Dược sĩ Đỗ Tất Lợi trong chuyến đi thực tế tìm các cây thuốc quý ở Sapa năm 1959. (Ảnh: Tư liệu)

Cuốn sách để đời của Giáo sư Đỗ Tất Lợi.

Cuốn sách để đời của Giáo sư Đỗ Tất Lợi.

Để viết bộ sách, ông đã tham khảo 38 cuốn sách tiếng Việt, 28 cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, 40 cuốn sách tiếng Trung, 26 cuốn sách tiếng Nga cùng nhiều tạp chí chuyên ngành ở trong cũng như ngoài nước. Điều ấy chứng tỏ, ông phải biết rất nhiều ngoại ngữ. Có ngoại ngữ được ông cập nhật, tự học khi đã 40 tuổi, nhằm mục đích để đọc sách, nghiên cứu dược học. Ngay như việc xác định tên khoa học cùng từng loại cây thuốc, ở từng vùng miền cũng là chuyện rất vất vả, vì mỗi nơi có một cách gọi khác, có những cây thuốc giống nhau mà mỗi nơi gọi một tên khác nhau.

Lật giở mỗi trang sách sẽ dễ dàng nhận thấy tác giả rất công phu, tỉ mỉ ghi chép những vị thuốc mà khoa học đã xác định rõ cơ chế, cả những vị thuốc được thực tiễn kiểm nghiệm hiệu quả… Cuốn sách dành cho mọi đối tượng, từ nhà khoa học đến những người dân bình thường muốn áp dụng những kinh nghiệm quý báu trong dân gian trong và ngoài nước, kinh nghiệm y học cổ truyền kết hợp với y học hiện đại.

Dược sĩ Đỗ Tất Lợi rất chú ý đến những bệnh thường ngày, như tưa lưỡi, chốc đầu, trớ, cam, đái dầm, chậm lớn… của trẻ em; những vị thuốc cho phụ nữ như kinh nguyệt không đều, sa dạ con, bạch đới, khí hư, khô sữa... đến những thứ bệnh hiện đại như cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, dạ dày, suy nhược thần kinh và đưa ra những phương thuốc chữa trị phù hợp.

Bởi vậy, trong bộ sách, ông đã đè cập đến 750 cây thuốc, vị thuốc. Bộ sách không chỉ là tư liệu quý cho những người làm nghiên cứu dược học, mà còn gây một niềm cảm hứng lớn cho những người muốn theo đuổi chuyên ngành này, đồng thời gieo vào lòng mỗi người dân niềm tự hào về sự giàu có của thiên nhiên, cây cỏ Việt Nam.

Sức sống mãnh liệt của bộ sách là minh chứng cho thấy Giáo sư Đỗ Tất Lợi đã mất rất nhiều thời gian để hoàn thành nó. Nó đã được ông ấp ủ từ khi còn là sinh viên và thu thập tư liệu, nghiên cứu từ những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ.

Công việc của nhà dược học như Đỗ Tất Lợi không chỉ đơn thuần là sưu tầm, ghi chép lại các vị thuốc mà còn phải nghiên cứu, điều tra từ kinh nghiệm trong dân gian, kết hợp với tra cứu từ các y văn có trước, đồng thời còn phải phân tích, lý giải bằng kinh nghiệm, kiến thức vốn đã tích lũy của bản thân mình.

Vươn tầm quốc tế,

rạng danh nền dược học Việt Nam

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Giáo sư Đỗ Tất Lợi và cuốn sách để đời của ông. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Đỗ Tất Lợi và cuốn sách để đời của ông. (Ảnh tư liệu)

Không chỉ ghi nhận sự công phu trong quá trình thu thập tài liệu về cây thuốc cổ truyền, các bài báo quốc tế còn cho rằng dược sĩ Đỗ Tất Lợi đã 'làm công việc không phải của một nhà dân tộc học hay thực vật học, mà là tạo ra một cơ sở khoa học chân chính'.

Chính bởi sự đồ sộ, tính khoa học và thực tiễn phổ quát mà bộ sách của dược sĩ Đỗ Tất Lợi đã vươn tầm ra quốc tế, được các nhà khoa học Liên Xô đánh giá rất cao. Tháng 12/1964, khi bộ sách mới in đến tập 5 thì Bộ trưởng Bộ Đại học Liên Xô đã gửi công văn cho Giám đốc Viện Hóa dược học Leningrad, đề nghị lưu ý về việc đánh giá giá trị khoa học của bộ sách.

Chỉ hai năm sau, trên tạp chí Tài nguyên thực vật, quyển 3, tập 1, năm 1967 (một tạp chí của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô) đăng bài viết nhan đề “Cây thuốc Việt Nam và vai trò của Giáo sư Đỗ Tất Lợi trong việc nghiên cứu các cây thuốc đó” của các nhà khoa học L. L. Brekman, A. F. Hammerman, I. V. Grusvisky và A. Yasenko-Khmelevsky. Trong bài báo, các tác giả đánh giá cao vai trò của Giáo sư Đỗ Tất Lợi với nền y học Việt Nam và cho rằng ông là người có khả năng bắc cây cầu giữa nền y học hiện đại với nền y học cổ truyền.

Không chỉ ghi nhận sự công phu trong quá trình thu thập tài liệu về cây thuốc cổ truyền, các tác giả bài báo còn cho rằng dược sĩ Đỗ Tất Lợi đã “làm công việc không phải của một nhà dân tộc học hay thực vật học, mà là tạo ra một cơ sở khoa học chân chính”.

   Chủ tịch nước Lê Đức Anh trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho GS.TSKH. Đỗ Tất Lợi tại Phủ Chủ tịch ngày 30/10/1996.

Với việc đề cập đến 430 loại cây thuốc, 51 vị thuốc động vật và 19 vị thuốc khoáng vật trong bộ sách, Giáo sư Đỗ Tất Lợi đã xem xét các cây thuốc Đông y theo quan điểm thực vật học và hóa thực vật và đã vận dụng các phương pháp như nghiên cứu hóa học, vi phẫn, dẫn liệu dược lý… Các tác giả bài viết phân tích lần lượt tác dụng chữa bệnh tiêu hóa, lỵ, giun sán, lợi tiểu, gan, thận, cầm máu, ho, tim, an thần, tê thấp, đau xương, mụn nhọt…

So sánh với các bộ sách về dược liệu của các tác giả ở Châu Âu, châu Á, bài viết trên Tạp chí Tài nguyên thực vật, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, quyển 3, tập 1, năm 1967 nhấn mạnh: “Có thể nói rằng, trong rất nhiều bộ sách viết về cây thuốc nhiệt đới, chưa có bộ sách nào có thể sánh với bộ sách của Đỗ Tất Lợi về mức độ chính xác, tỉ mỉ, khoa học. Rất nhiều cây thuốc mà Đỗ Tất Lợi giới thiệu là lần đầu tiên được dẫn ra trong các tài liệu về dược liệu học”.

Cuối cùng, bài báo kết luận: “Cây cầu mà GS Đỗ Tất Lợi đã bắc từ nền y học cổ truyền của nhân dân Việt Nam đến nền y học khoa học hiện đại, tất nhiên, mới là bước đầu của quá trình làm phong phú ngành dược liệu học của chúng ta bằng rất nhiều cây thuốc vô cùng quý giá”.

Với một bài báo, ghi nhận những đánh giá, phân tích của các nhà dược liệu hàng đầu Liên Xô, Giáo sư Đỗ Tất Lợi đã khiến tất cả phải chú ý đến mình và làm rạng danh nền dược học Việt Nam. Ngay lập tức, nó đã dẫn ông đến một đỉnh cao trong thang bậc học vị lúc bấy giờ.

Ngày 31/5/1968, Hội đồng khoa học của Viện Hóa dược học Leningrad đã họp để đánh giá về hoạt động và công trình khoa học của dược sĩ Đỗ Tất Lợi.

GS A. F. Hammerman, một trong những người đặt nền móng cho ngành dược liệu học Liên Xô nhấn mạnh: “Trước đây, y học dân gian chỉ được truyền miệng từ thầy sang trò, giờ đây được viết thành sách để khỏi mất đi những điều đã tích lũy được qua mấy nghìn năm. Đó là công lao to lớn của Đỗ Tất Lợi, không những đối với nhân dân Việt Nam, mà còn đối với khoa học thế giới… Ông đã giải thích và đưa việc phân tích các dược liệu đó lên trình độ khoa học hiện đại.

Đỗ Tất Lợi hoàn toàn xứng đáng được tặng học vị Tiến sĩ khoa học dược học mà không cần phải bảo vệ.

----------- GS A. F. Hammerman ------------

Trong bộ sách 6 tập, mỗi cây thuốc đều được mô tả đúng đắn về mặt thực vật học, sự phân bổ và trong điều kiện có thể, về thành phần hóa học, tác dụng dược lý, đôi chỗ còn có cả công thức triển khai. Nhiều cây đã được ông tự nghiên cứu về mặt hóa học hay cùng làm với học trò của ông. Cuối bộ sách, còn có bảng tra cứu tất cả các cây thuốc Việt Nam theo tác dụng trị bệnh…

Việc bắt đầu nghiên cứu những thứ cây cỏ này bằng các phương pháp khoa học hiện đại sẽ đưa ra hàng loạt phương thuốc hiệu nghiệm. Cho nên phải đánh giá Đỗ Tất Lợi không phải là một nhà bác học có tính khu vực, mà là một nhà bác học tầm cỡ thế giới, đặc biệt ở Liên Xô, nơi công trình của ông đang được vận dụng để khảo sát nguồn cây cỏ của vùng Viễn Đông” (Hàm Châu, Trí thức tinh hoa Việt Nam đương đại – Một số chân dung, Nxb Trẻ, 2014, tr.304).

Với những đóng góp về mặt khoa học như vậy, GS A. F. Hammerman kết luận: Đỗ Tất Lợi hoàn toàn xứng đáng được tặng học vị tiến sĩ khoa học dược học mà không cần phải bảo vệ. Hội đồng khoa học Viện Hóa dược Leningrad đã bỏ phiếu thuận 100% cấp đặc cách học vị Tiến sĩ cho ông Đỗ Tất Lợi. Đây là lần đầu tiên và duy nhất một hội đồng khoa học đặc cách công nhận và cấp bằng tiến sĩ cho một người mà không cần trải qua quá trình nghiên cứu sinh, viết và bảo vệ luận án. Nó chứng tỏ công trình của ông có giá trị khoa học lớn và khối lượng thông tin mới đồ sộ.

Các nhà dược học ở trong nước đều coi bộ sách của GS Đỗ Tất Lợi là mẫu mực và trở thành tài liệu gối đầu giường cho bất kỳ ai theo chuyên ngành này. Chỉ tính đến năm 2005, bộ sách đã được tái bản tới 15 lần với 150.000 bản.

Chưa hết, năm 1983, tại Triển lãm Hội chợ sách quốc tế ở Moskva, bộ sách được bình chọn là một trong 7 viên ngọc quý của triển lãm. Giá trị về nội dung của bộ sách đã mang đến cho ông vinh dự được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên, năm 1996. Ông cùng với Giáo sư Trương Công Quyền là hai người đầu tiên của ngành dược được trao tặng giải thưởng cao quý này. Chưa dừng lại ở đó, năm 2006, Hiệp hội Xuất bản châu Á-Thái Bình Dương (APPA) đã trao giải đặc biệt cho bộ sách.

Không chỉ có bộ sách để đời làm nên tên tuổi, Giáo sư Đỗ Tất Lợi còn viết hàng trăm bài báo khoa học công bố bằng các thứ tiếng Việt, Nga, Pháp, Đức, Rumani… Trong công tác đào tạo, Giáo sư Đỗ Tất Lợi được coi là người thầy mẫu mực, trong sáng, là tấm gương của nhiều thế hệ. Một đời miệt mài, cống hiến, sống giản dị, thanh bạch, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đỗ Tất Lợi đã để lại một sự nghiệp vẻ vang.

Ngày xuất bản: 8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Nội dung: NGUYỄN THANH HÓA
Thực hiện: THIÊN LAM - NGỌC DIỆP
Ảnh:
Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam, Báo Sức khỏe và Môi trường, Pngtree

E-Magazine I nhandan.vn