Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

 

Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

Trong những năm tháng kháng chiến, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đã tiên phong thực hiện nhiệm vụ sản xuất nhiều loại vũ khí, trong đó, chế tạo thành công súng đạn bazooka theo mẫu của Mỹ. Đây được xem là loại vũ khí hiện đại, có sức công phá lớn, giúp bộ đội tăng cường sức mạnh trên chiến trường. Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo về kỹ thuật chế tạo vũ khí trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945-1954.

Suốt 11 năm du học ở châu Âu, Trần Đại Nghĩa luôn nung nấu và chờ đợi cơ hội để hồi hương. Khát khao dùng kiến thức học ở Tây để chế tạo vũ khí mà đánh Tây, ông muốn cống hiến sức mình cho công cuộc giải phóng đất nước. Và rồi, sau 62 ngày kề cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Thủ đô Paris, 40 ngày ròng rã lênh đênh trên biển, Trần Đại Nghĩa cùng với Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân và Võ Đình Quỳnh, là những nhân tài đầu tiên theo chân Bác Hồ trở về xây dựng Tổ quốc.

Hoàn thành sứ mệnh
“Đại Nghĩa” với nhân dân

Phạm Quang Lễ (hàng đầu, đeo kính) cùng các bạn học tại Đại học Quốc gia Cầu đường Paris. (Ảnh Tư liệu)

Phạm Quang Lễ (hàng đầu, đeo kính) cùng các bạn học tại Đại học Quốc gia Cầu đường Paris. (Ảnh Tư liệu)

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913 tại tỉnh Vĩnh Long. Cha Phạm Quang Lễ là nhà giáo Phạm Văn Mùi, mẹ là bà Lý Thị Diệu. Lớn lên trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn, năm lên 6 tuổi, Lễ mồ côi cha. Nhớ lời cha dặn phải học hành đến nơi, đến chốn và mang hiểu biết của mình để giúp ích cho đời, ngay từ nhỏ, cậu bé Lễ đã nuôi trong mình ý chí và quyết tâm học tập. Ngày ấy, với những gia đình cơ cực, nghèo túng, nuôi được đứa con học hành đàng hoàng vốn là điều hiếm có. Thương em, chị gái Phạm Thị Nhẫn đã phải nghỉ học, tần tảo làm lụng để Lễ có cơ hội đến trường.

Năm 1926, Phạm Quang Lễ thi đỗ hạng ưu của Trường trung học đệ nhất cấp Mỹ Tho và giành được học bổng trong 4 năm đào tạo. Tới năm 1930, Lễ tiếp tục thi đỗ vào Trường Petrus Ký (nay là Trường trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh) và nhận học bổng trong 3 năm liền. Đúng 3 năm sau, chàng thanh niên Phạm Quang Lễ thi đậu loại Giỏi bằng tú tài Tây và tú tài ta.

Trong 2 năm công tác ở Toà sứ Mỹ Tho, tại đây, Lễ có cơ duyên gặp nhà báo Dương Quang Ngưu - một Việt kiều Pháp yêu nước. Thấy Phạm Quang Lễ có tư chất, thông minh, ông đã vận động Hội Ái Hữu, Trường Chasseloup Laubat cấp một năm học bổng cho Lễ đi du học tại Paris.

Tháng 9/1935, Phạm Quang Lễ rời xa quê hương, sang Pháp du học. Với lòng đam mê về khoa học kỹ thuật, đặc biệt là kỹ thuật sản xuất vũ khí, ông đã theo học và tốt nghiệp nhiều trường: Đại học Bách khoa, Đại học Mỏ, Đại học Điện, Đại học Sorbonne, Đại học quốc gia Cầu đường Paris, Học viện Kỹ thuật Hàng không.

Ít ai biết rằng, từ nhỏ, Phạm Quang Lễ đã nuôi ý chí chế tạo được vũ khí. Sau này, bà Nguyễn Thị Khánh, vợ của Giáo sư từng tiết lộ rằng, ông ấy thấy mình vốn không giỏi về khoản ăn nói nên chẳng hợp làm công tác tuyên truyền. Trong khi đó, muốn tổ chức lực lượng đánh thắng quân thực dân việc sở hữu vũ khí tối tân là hết sức quan trọng. Do vậy, khi còn là chàng thanh niên 22-23 tuổi, ông đã tìm cơ hội sang nước ngoài học tập để thực hiện hoài bão nghiên cứu và chế tạo vũ khí.

Thế nhưng, hành trình hiện thực hóa ước mơ ấy của Phạm Quang Lễ không hề đơn giản. Bởi theo vị Giáo sư tài ba này, không một quốc gia nào trên thế giới lại “ngớ ngẩn công bố các tài liệu kỹ thuật quân sự”. Vậy là trong suốt 11 năm đằng đẵng ở trời Tây, ông chỉ có thể mò mẫm tự học một cách âm thầm, đơn độc và bí mật.

Bắt đầu tìm nguồn tài liệu bằng cách lân la làm quen với thủ thư, mỗi sáng thứ 6, Phạm Quang Lễ viết những cuốn sách muốn mượn và đưa cho người này. Buổi chiều, ông đến nhận sách và đọc xong chỉ trong 2 ngày. Ngay sáng thứ hai tuần kế tiếp, ông đã phải trả lại sách thư viện để không bị phát hiện. Trung bình cứ 20.000 đầu sách mới có thể chọn được một cuốn có liên quan đến vũ khí. Thế là trong số hơn một triệu cuốn sách ở thư viện, cậu sinh viên Phạm Quang Lễ chỉ nhặt ra được 50 cuốn. Khó khăn là vậy, song, sau hàng chục năm tìm kiếm và tích lũy, ông đã sở hữu 1 tấn sách với hơn 30.000 trang tài liệu về vũ khí. Nhờ ham học, Phạm Quang Lễ thông thạo tiếng Pháp, Đức, Anh, Nga và Trung Quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với Giáo sư Trần Đại Nghĩa. (Ảnh tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với Giáo sư Trần Đại Nghĩa. (Ảnh tư liệu)

Tháng 5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn đàm phán do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn sang Pháp thương thuyết với Bộ trưởng Thuộc địa Marius Moute. Nắm được thông tin này, Phạm Quang Lễ đã nhờ ông Hoàng Xuân Mạn, em của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, giới thiệu với Thủ tướng Phạm Văn Đồng để có cơ hội trình bày về nguyện hồi hương cứu quốc.

Ngay sau đó, cùng với các Việt kiều yêu nước, Phạm Quang Lễ đã có dịp gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Được Người hỏi về nguyện vọng, Lễ trả lời rất nhanh: “Kính thưa Cụ, nguyện vọng cao nhất của tôi là được trở về Tổ quốc cống hiến hết năng lực và tinh thần”.

Ngày 16/9/1946, Chính phủ Pháp bố trí một chuyến tàu đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng 4 Việt kiều về nước. Trong một cuộc trò chuyện trên tàu, Người đã hỏi hai câu khiến Phạm Quang Lễ nhớ mãi. Chia sẻ về tình hình khó khăn trong nước, Người băn khoăn rằng, liệu họ có chịu khổ nổi không, Lễ liền trả lời: “Tôi chịu nổi”. Người lại hỏi, quê nhà không có kỹ sư và công nhân vũ khí, máy móc thì lại thiếu, liệu có làm được không? Lễ quả quyết: “Tôi làm được”.

Lần gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của chàng thanh niên yêu nước Phạm Quang Lễ. Từ bỏ vị trí kỹ sư trưởng ở Hãng nghiên cứu chế tạo máy bay Concord với mức lương tương đương 22 lượng vàng mỗi tháng ở Pháp, tháng 10/1946, Trần Đại Nghĩa theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về quê hương.

Bảo vệ sức khỏe bộ đội tại mặt trận

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. (Ảnh tư liệu)

Chỉ 7 ngày sau khi về nước, đúng ngày 27/10/1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên để nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu Bazooka của Mỹ. Tất cả gợi ý mà Trần Đại Nghĩa nhận được là hai viên đạn do Tạ Quang Bửu, lúc này là Thứ trưởng Quốc phòng, cung cấp.

Hơn một tháng sau, ngày 5/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao cho kỹ sư Trần Đại Nghĩa chức Cục trưởng Quân giới. Đây là động lực lớn lao, song cũng là trách nhiệm nặng nề được đặt lên vai người kỹ sư trẻ. Người căn dặn rằng: “Việc của chú là việc đại nghĩa, vì thế, từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ bí mật cho chú và để bảo vệ gia đình, bà con chú còn ở trong nam”. 

Nói rồi, Người giải thích ý nghĩa cái tên: “Một là họ Trần, là họ của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nước. Đại Nghĩa còn là chữ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo”. 

Kể từ khoảnh khắc ấy, cái tên Trần Đại Nghĩa đã gắn chặt với cuộc đời của chàng thanh niên mang trong mình lý tưởng phụng sự Tổ quốc - Phạm Quang Lễ. Mãi sau này, khi ông lập gia đình, vợ chồng ông cũng lấy họ “Trần” để đặt cho con với mong muốn mai sau các con có thể tiếp nối sự nghiệp của cha với đất nước.

Khi lý tưởng cách mạng hòa cùng tình yêu khoa học

Dù đã chuẩn bị 1 tấn sách với hơn 30.000 trang tài liệu về vũ khí để mang về nước, nhưng “gia tài” ấy lại thất lạc khi Trần Đại Nghĩa gửi nhờ qua một người bạn. Ở thời điểm đó, điều duy nhất ông có thể làm là tự khơi gợi và ghi chép lại những kiến thức đã tích lũy trong đầu trước đó.

Đầu tháng 11/1946, cùng với các cộng sự, kỹ sư Trần Đại Nghĩa bắt tay thực hiện những công việc đầu tiên. Ông chỉ đạo xưởng Giang Tiên (Phú Lương, Thái Nguyên) sản xuất thành công một khẩu súng Bazooka 60 mm với 50 quả đạn. Tuy nhiên, khi bắn thử, đạn của súng nổ nhưng chưa xuyên. Lý giải về điều này, Trần Đại Nghĩa nhận ra, đạn Bazooka của Mỹ được nhồi bằng thuốc phóng, còn Việt Nam chỉ có loại thuốc súng lấy được từ bom đạn của Pháp. Vì lẽ đó, tất cả kế hoạch thực hiện trước đó đều phải tính toán lại từ đầu.

Trần Đại Nghĩa nhận định rằng, muốn sản xuất đạn Bazooka thành công cần phải hiểu được những nguyên lý cơ bản về thuốc phóng, thuốc nổ. Từ đây, kiến thức 11 năm đèn sách thu lượm ở Pháp được ông vận dụng triệt để. Cuối tháng 2/1947, Bazooka được thử nghiệm thành công. Mức đâm xuyên của đạn đạt độ sâu 75cm trên tường thành xây bằng gạch. Sức công phá này tương đương với sức nổ xuyên của đạn Bazooka do Mỹ chế tạo.

Ngày 3/3/1947, khi máy bay Pháp yểm trợ cho xe tăng, cơ giới của địch đánh chiếm thị xã Hà Đông, Bazooka được đưa ra sử dụng và bắn cháy những chiếc xe tăng đi đầu. Điều này đã gây bất ngờ lớn với quân Pháp và trở thành dấu mốc quan trọng của ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế tạo khí tài, súng đạn. Chiến công này cũng góp phần “bẻ gãy” cuộc tấn công của địch ra vùng Chương Mỹ, Quốc Oai.

Sau khi thiết kế thành công súng Bazooka, kỹ sư Trần Đại Nghĩa đề xuất ý tưởng chế tạo súng không giật với Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu và được khuyến khích thực hiện.

Súng Bazooka trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4. (Ảnh: Báo Quân đội nhân dân)

Súng Bazooka trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4. (Ảnh: Báo Quân đội nhân dân)

Những năm làm trong quân giới, trung bình chúng tôi phải suy nghĩ, nghiên cứu 14 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Phải tập trung sức óc căng như vậy, mới mong giải quyết được những vấn đề khó. Theo tôi, người nghiên cứu khoa học cũng như anh công nhân rèn thép. Khi thanh thép đang đỏ, mềm, phải nện búa dồn dập, thật khỏe, thật nhanh, chớ có nhẩn nha để cho nó nguội cứng lại… Chẳng phải chỉ trong giờ làm việc, mà cả trong lúc dạo chơi, lúc ngâm mình dưới suối, lúc ăn, lúc ngủ…
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa

Bên cạnh sức sáng tạo của kỹ sư Trần Đại Nghĩa là cả một tập thể trí thức trẻ đầy nhiệt tình và hăng hái. Đó là Hoàng Đình Phu, là Nguyễn Trinh Tiếp, là Bùi Minh Tiêu, là Phạm Đồng Điện, là Nguyễn Văn Hường… Đặc biệt, kỹ sư Nguyễn Trinh Tiếp là người có đóng góp rất quan trọng vào việc thiết kế, chế tạo súng SKZ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải) và Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa (ở giữa, đeo kính) tại một cở sở sản xuất vũ khí trong kháng chiến chống Pháp. (Ảnh tư liệu)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải) và Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa (ở giữa, đeo kính) tại một cở sở sản xuất vũ khí trong kháng chiến chống Pháp. (Ảnh tư liệu)

Vận dụng những kiến thức thu thập được trong nhiều năm ở Pháp, ông đã thiết kế thành công súng SKZ. SKZ của Việt Nam xuất hiện lần đầu ở trận Phố Lu, đánh lô-cốt giặc. Đường kính nòng súng là 50mm, nhưng đường kính quả đạn lõm lại là 1600mm. Súng nặng 20kg, nhưng đạn có thể nặng tới 25kg, chuôi đạn tiện bằng gỗ. Năm 1950, chiến trường Nam Trung bộ nhận được 10 khẩu SKZ và 150 quả đạn, giúp đánh thắng nhiều đồn bốt địch. Một thời gian sau đó, nam bộ cũng nhận súng SKZ để phục vụ cuộc kháng chiến.

Giáo sư Trần Đại Nghĩa còn sáng tạo ra đạn bay. Thời điểm đó, không ai dùng thuốc pháo đen trong tên lửa. Bởi dù thành phần của loại thuốc này rất đơn giản, dễ điều chế, nhưng sức nổ yếu, ngòi cháy nhanh. Ngoài ra, còn không có ống thép làm tên lửa nên cán bộ quân giới đã đúc bằng đồng. Mặc dù khó khăn, nhưng Trần Đại Nghĩa vẫn chế tạo và phóng thành công đạn bay, một loại tên lửa nặng 30kg, có thể đánh phá các mục tiêu xa khoảng 4km.

Từng làm thư ký cho Giáo sư Trần Đại Nghĩa từ năm 1968-1971, Trần Thành Đức nhớ lại, công lao lớn nhất của kỹ sư Trần Đại Nghĩa không chỉ là chế tạo ra súng Bazooka mà còn đào tạo được một đội ngũ cho ngành Quân giới đầu tiên ở Việt Nam, đặt nền móng cho sự phát triển của ngành Quân giới. Những học viên đầu tiên được ông Nghĩa lên lớp giảng bài khi ấy là Lê Khắc, Hoàng Xuân Tùy, Phạm Đồng Điện, Hoàng Đình Phu, Nguyễn Văn Thu, Tôn Thất Hoàng… Sau này họ đều trở thành những cán bộ cốt cán và có vai trò nhất định trong nền công nghiệp quốc phòng của Việt Nam.

“Giáo sư Trần Đại Nghĩa đã trực tiếp giảng dạy những kiến thức cơ bản về nội phao, ngoại phao mà nội dung là lý thuyết chuyển động của đạn trong nòng súng và ngoài khí quyển, các tính năng của thuốc nổ, thuốc phóng,… Ông là người đầu tiên truyền thụ cho những cán bộ này những kiến thức về kỹ thuật vũ khí, xạ thuật, chất cháy, chất nổ, những vấn đề chưa có trong chương trình đào tạo đại học và cao đẳng ở Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám”, thư ký Trần Thành Đức hồi tưởng.

Theo ông Trần Thành Đức, những bài giảng của thầy Nghĩa đều có tính chọn lọc, vừa cơ bản, vừa thiết thực, vừa học lý thuyết, vừa bắt tay ngay vào tính toán thực hành. Đây là cơ sở lý luận đầu tiên giúp cho cán bộ nghiên cứu tiếp tục tự học, nâng cao trình độ của mình. Sau lớp học này, kỹ sư Trần Đại Nghĩa còn tiếp tục mở một lớp giảng dạy khác ở Bắc Kạn vào khoảng năm 1947, lớp học có khoảng 120 người, đến từ nhiều nơi. Ông đã giảng về nguyên lý chế tạo súng Bazooka, các vấn đề cơ bản của vũ khí. Trong điều kiện khó khăn ông đã ý thức xây dựng một đội ngũ cán bộ kỹ thuật đông đảo nhằm phục vụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta.

Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa (thứ ba từ phải sang) cùng cán bộ quân giới xem các loại vũ khí. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa (thứ ba từ phải sang) cùng cán bộ quân giới xem các loại vũ khí. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Trần Đại Nghĩa được phong quân hàm Thiếu tướng năm ông 35 tuổi. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Trần Đại Nghĩa được phong quân hàm Thiếu tướng năm ông 35 tuổi. (Ảnh tư liệu)

Ngày 20/11/1948, Trần Đại Nghĩa được phong quân hàm Thiếu tướng khi chỉ mới 35 tuổi. Khoảng 4 năm sau, tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, ông được phong danh hiệu Anh hùng lao động đợt đầu tiên của Việt Nam. Cũng trong năm này, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô - danh vị cao nhất dành cho những người làm công tác khoa học.

Trên cương vị Viện trưởng Khoa học Việt Nam, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng và phát hiện, phát triển tài năng khoa học. Trong chỉ đạo nghiên cứu khoa học, ông luôn đề cao nguyên tắc bảo đảm tính ứng dụng. Bởi theo ông, nghiên cứu khoa học nhằm mục đích phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội.

Nhìn lại quãng thời gian công tác, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đã đảm nhận các vị trí trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: Cục trưởng Cục Quân giới, Cục trưởng Cục Pháo binh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Khoa học Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công Thương, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp Các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Ông cũng Hiệu trưởng đầu tiên Trường đại học Bách khoa Hà Nội…

Viết tiếp câu chuyện về
tinh thần Trần Đại Nghĩa
trong thế hệ trẻ hôm nay

Trường trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa là một trong những cơ sở đào tạo học sinh giỏi hàng đầu tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa là một trong những cơ sở đào tạo học sinh giỏi hàng đầu tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Có một tinh thần mang tên Trần Đại Nghĩa cuộn chảy trong mạch nguồn yêu nước của thế hệ trẻ. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa sống những ngày tháng cuối đời rồi ra đi vào năm 1997, ở ngôi trường mang tên người anh hùng dân tộc - Trường trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa, tinh thần yêu nước nồng nàn và lý tưởng phụng sự Tổ quốc luôn được tiếp nối, trao truyền qua biết bao thế hệ.

Trò chuyện với Nguyễn Quang Trụ, cựu học sinh lớp chuyên Anh 1, khóa 2015-2018, Trường trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa, chúng tôi lại càng thấm thía hơn về khát vọng xây dựng đất nước của những người trẻ.

“Ngay từ khi còn ngồi trên nhà trường, trong tôi đã nung nấu ý định du học rồi quay trở về phục vụ quê hương. Và xung quanh tôi, rất nhiều bạn bè cũng có kế hoạch như thế”, Quang Trụ chia sẻ.

Ước mơ bay trên bầu trời rộng lớn, ngay sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, chàng trai sinh năm 2000 đã quyết định sang Philippines để hiện thực hóa khát khao trở thành phi công của mình. Năm 2022, Quang Trụ trở về Việt Nam và “đầu quân” cho Bamboo Airways. Giữa năm 2024, anh trở thành cơ phó của Jetstar Asia, một hãng bay của Singapore. Và mới đây, anh tiếp tục thử sức mình khi ứng tuyển thành công vào hãng hàng không nổi tiếng Hongkong Cathay Pacific Airways.

“Hẳn mỗi người sẽ có một lựa chọn riêng. Có người lựa chọn ở lại quê hương. Có người đặt mục tiêu sinh sống ở nước ngoài. Có người mong muốn bước ra quốc tế để học những điều mà ở trong nước chưa có rồi lại trở về phục vụ Tổ quốc. Với tôi, việc trở về Việt Nam luôn được hoạch định sẵn trong kế hoạch. Tôi muốn đi nhiều nơi trên thế giới, học được thêm nhiều kiến thức để tương lai có thể trở về và góp một phần nhỏ vào việc phát triển ngành hàng không của nước nhà”, Nguyễn Quang Trụ cho hay.

Nguyễn Quang Trụ, cựu học sinh Trường trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa, cùng ước mơ bay lượn trên bầu trời.

Nguyễn Quang Trụ, cựu học sinh Trường trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa, cùng ước mơ bay lượn trên bầu trời.

Phi công Nguyễn Quang Trụ cùng đồng nghiệp. Trên ngực trái của anh luôn mang theo ghim cài áo hình lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam.

Phi công Nguyễn Quang Trụ cùng đồng nghiệp. Trên ngực trái của anh luôn mang theo ghim cài áo hình lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam.

Nhớ lại những ngày tháng học tập dưới mái trường mang tên Trần Đại Nghĩa, Quang Trụ cho biết, từ những ngày nhập học, thầy cô trong trường đã chia sẻ cho học sinh về tiểu sử và sự nghiệp của Giáo sư, Viện Sĩ Trần Đại Nghĩa.

“Ngày ấy, hẳn nhiều người đã từng băn khoăn rằng, điều gì khiến Giáo sư Trần Đại Nghĩa có thể từ bỏ cả cuộc sống sung túc về vật chất, cơ hội làm việc trong môi trường lý tưởng ở châu Âu mà trở về quê hương giữa điều kiện trăm bề thiếu thốn. Thế nhưng, ông đã cho chúng ta thấy được rằng, sự ưu tú của một người không chỉ được đo lường bằng những thành tựu họ gặt gái được, mà còn bằng những giá trị họ đóng góp cho đất nước, cộng đồng. Và điều đó đã truyền cảm hứng rất lớn cho thế hệ trẻ chúng tôi”, Quang Trụ giãi bày.

Theo Nguyễn Quang Trụ, tinh thần Trần Đại Nghĩa được “nuôi dưỡng” qua các thế hệ học sinh bằng lòng tự hào dân tộc, được khơi gợi bằng sự sáng tạo, tính bứt phá và đổi mới trong lối nghĩ hay tư duy học tập.

“Tôi dự định sẽ học thêm các kiến thức thực tế về nghề bằng việc thử sức ở nhiều hãng bay trên thế giới rồi trở về quê hương. Làm việc ở thị trường quốc tế, động lực khiến tôi cố gắng là niềm tự hào khi là người Việt Nam. Tôi muốn khẳng định, những điều phi công nước bạn làm được thì người Việt mình cũng làm được”, Quang Trụ chia sẻ thêm.

Trần Đại Nghĩa (hàng đầu tiên, thứ hai từ phải sang) trong buổi chúc thọ lục tuần đại khánh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lý tưởng phụng sự Tổ quốc của Trần Đại Nghĩa đã trở thành nguồn cảm hứng cho thế hệ trẻ hôm nay. (Ảnh tư liệu)

Trần Đại Nghĩa (hàng đầu tiên, thứ hai từ phải sang) trong buổi chúc thọ lục tuần đại khánh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lý tưởng phụng sự Tổ quốc của Trần Đại Nghĩa đã trở thành nguồn cảm hứng cho thế hệ trẻ hôm nay. (Ảnh tư liệu)

Nhắc về Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, bao thế hệ người Việt Nam vẫn nhớ về chiến thắng vang dội trên chiến trường bằng Bazooka. Những câu chuyện về chế tạo vũ khí hiện đại trong núi rừng Việt Bắc, giữa điều kiện gian khổ để đánh lô-cốt, đánh xe tăng địch dường như đã trở thành huyền thoại trong công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.

Trên số báo Báo Nhân Dân xuất bản ngày 16/12/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đã nhận định rằng: “Là một đại trí thức, đi học ở châu Âu nhiều năm, mang một lòng nhiệt tình về phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến, đó là Anh hùng lao động trí óc Trần Đại Nghĩa”.

Khi miền nam hoàn toàn giải phóng, Trần Đại Nghĩa đã viết trong nhật ký của mình: “Nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành, vì hoài bão của tôi hồi nhỏ, sứ mệnh của tôi rất đơn giản là tham gia về mặt khoa học, kỹ thuật vũ khí trong cuộc đấu tranh cách mạng để giải phóng đất nước và nay đất nước đã được giải phóng, tôi không muốn gì hơn nữa, vì một đời không thể làm hơn”. Trần Đại Nghĩa đã sống một cuộc đời đúng như cái tên và kỳ vọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cho: ông đã hoàn thành việc “Đại Nghĩa” với dân tộc Việt Nam.

Ngày xuất bản: 8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG VÂN
Nội dung: MINH NHẬT - NGỌC KHÁNH - NGUYỄN THANH HÓA
Trình bày: NGỌC DIỆP - CHIÊU ANH
Ảnh: Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân

E-Magazine I nhandan.vn