Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

 

Từ những ngày đầu tiên lập nước, nhiều trí thức, nhà khoa học, nhà văn hóa đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bỏ lại sau lưng nhiều lợi ích cá nhân để trở về quê hương phục vụ đồng bào mình.

Họ là những người đặt những viên gạch đầu tiên trên hành trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực… song hành với con đường phát triển của đất nước. Nhiều công trình của các nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi của quân và dân cả nước, trong bối cảnh đất nước vẫn còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn đủ bề.

"Thế hệ trí thức vàng Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo".

Nhiều công trình trong số đó đã được trao tặng những giải thưởng cao quý, như Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhiều sáng kiến đã được áp dụng ở không chỉ trong nước mà còn cả ở quốc tế.

Trong loạt bài dưới đây, chúng tôi giới thiệu với độc giả những đóng góp của những nhà trí thức cách mạng, tiên phong xây dựng nền móng cho các ngành khoa học, văn hóa-nghệ thuật. “Thế hệ trí thức vàng” Việt Nam với tinh thần yêu nước sâu sắc là những người “khổng lồ” trong lĩnh vực của mình, để thế hệ sau không ngừng học tập, noi theo.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ sinh năm 1932, mất năm 1996, quê quán ở Hà Tĩnh. Ông nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Viện trưởng Nghiên cứu hạt nhân. Nguyễn Đình Tứ cũng là nhà quản lý giáo dục và khoa học đã góp phần xác lập các luận cứ khoa học để lãnh đạo Đảng và Nhà nước quyết định đưa Internet vào Việt Nam. Ông đặt nền móng và trực tiếp chỉ đạo quá trình hình thành, phát triển ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam, cũng là người đầu tiên đặt vấn đề đưa điện hạt nhân vào Việt Nam.

Là một trong những nhà khoa học đầu tiên ở Việt Nam đào sâu về lĩnh vực hạt nhân nguyên tử, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ được xem là người xây dựng và phát triển ngành năng lượng nguyên tử ở nước ta. Với cụm công trình Nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và phát hiện phản hạt hyperon sigma âm, ông đã để lại nhiều dấu ấn trong công tác nghiên cứu vật lý học trong nước và quốc tế.

Hành trình tri thức
trên “đất khách”

Sinh ra trong một gia đình trí thức nghèo, có truyền thống yêu nước ở xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc (cũ, nay là xã Trường Lưu), tỉnh Hà Tĩnh, lên 6 tuổi, Nguyễn Đình Tứ đã theo chân cha vào An Lương (Bình Định) học tiểu học. Cha ông là thầy giáo Nguyễn Mỹ Tài, người từng đậu thành chung, có 1 năm học sư phạm và được bổ nhiệm dạy ở một trường tiểu học tại Bình Định.

Tốt nghiệp bậc tiểu học, cậu bé Nguyễn Đình Tứ học năm thứ nhất, thứ hai tại Trường Quốc học Quy Nhơn. Đầu năm 1946, khi thực dân Pháp mở rộng lấn chiến các tỉnh vùng Nam Trung Bộ, cha ông lại chuyển về Hà Tĩnh làm thanh tra tiểu học tại Ty Giáo dục của tỉnh. Cũng vì lẽ đó mà Nguyễn Đình Tứ theo học lớp đệ tam và đệ tứ tại Trường Phan Đình Phùng.

Dẫu phải di chuyển chốn học liên tục, việc ăn ở cũng bị gián đoạn, nhưng Nguyễn Đình Tứ luôn đứng đầu lớp. Tốt nghiệp bằng thành chung loại ưu, ông theo học Trường Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng, tiền thân là Trường Chuyên khoa Quốc học Huế chuyển ra đóng tại xã Châu Phong, Hà Tĩnh.

Nhà nghiên cứu văn hóa, nhà địa phương học Lê Trần Sửu từng chia sẻ về thời ấu của Giáo sư Nguyễn Đình Tứ trên Tạp chí Hồng Lĩnh (thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh) rằng: “Quá trình học ở bậc phổ thông Nguyễn Đình Tứ không có đối thủ. Đặc biệt là môn Toán, anh luôn tìm ra cách giải độc đáo, sáng tạo, các thầy dạy toán thán phục, nể trọng. Đang học năm thứ nhất trường chuyên khoa, anh đã tự tìm hiểu, học hết chương trình năm thứ hai và được nhà trường đồng ý cho vượt lớp từ năm thứ nhất lên năm thứ ba. Cuối năm đó (năm 1949), khi tốt nghiệp chuyên khoa, anh đậu Thủ khoa và được kết nạp Đảng lúc mới 17 tuổi”.

Giáo sư Nguyễn Đình Tứ (ngoài cùng bên phải) cùng các đồng nghiệp miệt mài với công việc nghiên cứu. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư Nguyễn Đình Tứ (ngoài cùng bên phải) cùng các đồng nghiệp miệt mài với công việc nghiên cứu. (Ảnh tư liệu)

Năm 1951, Nguyễn Đình Tứ được nhà nước cử sang Trung Quốc học ngành Thủy lợi - Thủy điện ở Đại học Vũ Hán. Hành trình đi tìm tri thức trên “đất khách” của ông bắt đầu từ đây.

Sau khi về nước, vào năm 1957, Giáo sư Tạ Quang Bửu, thời điểm này đang là Phó chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký Ủy ban khoa học nhà nước, chọn và cử 3 thanh niên ưu tú, bao gồm: Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Hoàng Phương và Dương Trọng Bái để sang Liên Xô làm cộng tác viên tại Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna (JINR).

Lúc bấy giờ, Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna là trung tâm nghiên cứu khoa học lớn nhất của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Viện được thành lập vào năm 1956. Tại Phòng Năng lượng cao của Viện, dưới sự lãnh đạo của Viện sĩ V.I.Vexler, các nhà khoa học tiến hành chuẩn bị máy gia tốc Synchrophasotron với năng lượng 10 GeV. Đây là máy gia tốc proton lớn nhất thời bấy giờ.

Có thể nói, việc được cử sang Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna làm cộng tác viên vào năm 1957 là bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động khoa học của Nguyễn Đình Tứ. Kể từ đây, ông gắn bó sâu sắc với ngành Vật lý trong sự nghiệp nghiên cứu của mình.

Lá thư Giáo sư Nguyễn Đình Tứ gửi về Giáo sư Nguyễn Thu Nhạn - vợ ông, khi ông phát hiện ra một loại hạt mới. (Ảnh tư liệu)

Lá thư Giáo sư Nguyễn Đình Tứ gửi về Giáo sư Nguyễn Thu Nhạn - vợ ông, khi ông phát hiện ra một loại hạt mới. (Ảnh tư liệu)

Ở Liên Xô, Nguyễn Đình Tứ được phân làm việc tại Tổ buồng bọt thuộc Phòng Năng lượng cao, trở thành một cộng tác viên trẻ, nhà khoa học trẻ của phòng thí nghiệm năng lượng cao. Ông thường xuyên tham gia mọi giai đoạn thu nhận và xử lý phim ảnh thu được từ buồng bọt propan 24 lít; trực đêm trong những kỳ bức xạ buồng bọt trên chùm hạt π-  meson, soi chiếu các phim thu được bằng kính lúp stereo…

Sống xa quê, Nguyễn Đình Tứ phải tự học tiếng Nga trên “đất khách”. Ông buộc phải sớm thích nghi với một cuộc sống mới và tiếp cận với một công việc hoàn toàn mới. Nguyễn Đình Tứ đọc nhiều tài liệu và ghi chép lại những kiến thức mới mẻ. Thậm chí, ông còn ghi chép lại những kiến thức đó để gửi về cho người bạn đời của mình - Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Nhạn. Nhờ vậy, hai người có thể hiểu được công việc của nhau dù công tác trong hai lĩnh vực khác nhau. Hồi ức về những ngày tháng ấy đều được lưu lại qua các bức thư trao đổi giữa ông và vợ.

Phát hiện lớn:
Tìm ra phản hạt hyperon sigma âm

Năm 1960, qua việc phân tích 40.000 bức ảnh chụp được trong phòng thí nghiệm Nguyễn Đình Tứ cùng đồng nghiệp đã tìm ra được một hạt mới. Đến năm 1962, ông thay mặt nhóm nghiên cứu trực tiếp báo cáo kết quả phát minh tại diễn đàn Hội nghị khoa học quốc tế các nước Tây Âu. Cũng trong năm này, tập hợp các công trình nghiên cứu trong 5 năm từ năm 1957-1962, ông bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ Toán-Lý và trở thành Phó Tiến sĩ ngành Vật lý hạt nhân đầu tiên của Việt Nam.

Vào năm 1968, kết quả phát minh của nhóm được cấp bằng sáng chế Ủy ban sáng chế và phát minh thuộc Hội đồng Bộ Trưởng Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết cấp. Nội dung phát minh ghi rõ: một hiện tượng chưa được biết đến từ trước đã phát hiện bằng thực nghiệm là sự hình thành và phân rã của hạt mang điện phản Sigma-âm hyperon, có trọng lượng lớn gấp 2340 lần so với trọng lượng hạt điện tử. Hạt có điện tích dương với thời gian sống bằng một phần mười tỷ giây và phân rã thành hạt π-meson dương và phản nơtron.

Từ năm 1966-1971, Nguyễn Đình Tứ trở lại Liên Xô. Thời gian này, ông đã tham gia soạn thảo các chương trình máy tính để xử lý số liệu từ buồng bọt propan 2m.

Cụm công trình “Nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và phát hiện phản hạt hyperon sigma âm” là thành quả say mê lao động khoa học của Giáo sư Nguyễn Đình Tứ cùng các đồng nghiệp trong hàng chục năm làm việc tại Viện Liên hợp nghiên cứu hạt nhân Dubna, Liên Xô.

Cụm công trình “Nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và phát hiện phản hạt hyperon sigma âm” gồm 6 công trình:
- Nghiên cứu các quá trình sinh hạt và phản hạt;
- Nghiên cứu đặc tính tương tác giữa π-meson và Nucleon, giữa π-meson và hạt nhân carbon;
- Nghiên cứu tiết diện ngang vi phân của tán xạ đàn tính trên góc bé của proton lên proton, neutron và deuteron;
- Nghiên cứu các phương pháp xác định các thông số của buồn bọt và hệ thiết bị chụp ảnh không gian các sự kiện;
- Nghiên cứu phương pháp tự động tìm kiếm và nhận diện các quá trình tương tác;
- Đề xuất phương pháp mới nghiên cứu quá trình tập hợp.

Những chương trình mà Nguyễn Đình Tứ đã tham gia biên soạn và lập trình đã được sử dụng suốt hơn 30 năm hợp tác vật lý quốc tế.
Nhà khoa học E.N. Kladdnitxkaia, đồng nghiệp của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ ở Liên Xô

Những di sản để lại
cho ngành vật lý Việt Nam

Khu vực giới thiệu các công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Đình Tứ tại Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam.

Khu vực giới thiệu các công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Đình Tứ tại Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam.

Trở về quê hương vào năm 1971, Nguyễn Đình Tứ được phân công đảm nhiệm chức Phó Hiệu trưởng Trường đại học tổng hợp Hà Nội. Đầu năm 1976, ông làm Thứ trưởng Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Từ tháng 7/1976, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Đại học và Trung học chuyên nghiệp, rồi giữ trọng trách này cho đến năm 1986.

Trên cương vị là một nhà quản lý giáo dục, Nguyễn Đình Tứ đã sắp xếp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tại miền nam theo mô hình nhà trường xã hội chủ nghĩa thống nhất cả nước. Ông mở ba trường dự bị đại học để đào tạo các đối tượng chính sách, người dân tộc miền núi. Bên cạnh đó, thành lập 5 trường trung học chuyên nghiệp trên khắp cả nước để đào tạo lực lượng lao động cho địa phương. Đây là tiền thân của các trung tâm giáo dục thường xuyên được hình thành sau này.

Dù bận rộn với công việc ở Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ vẫn dành nhiều tâm sức cho việc nghiên cứu, xây dựng ngành năng lượng nguyên từ quốc gia.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải) cùng Giáo sư Nguyễn Đình Tứ (người thứ hai từ trái sang) trong một sự kiện của Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải) cùng Giáo sư Nguyễn Đình Tứ (người thứ hai từ trái sang) trong một sự kiện của Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Sau 5 năm chuẩn bị, từ một phòng thí nghiệm nghiên cứu, tháng 6/1984, Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia ra đời. Giáo sư Nguyễn Đình Tứ giữ chức Chủ tịch Hội đồng khoa học của Viện cho đến khi ông qua đời.

Dưới sự lãnh đạo của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ, ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Lò phản ứng Đà Lạt được khôi phục. Công nghệ chiếu xạ được mở rộng. Các hoạt động hợp tác quốc tế cũng được tiến hành với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, cùng các quốc gia như: Liên Xô, Cu Ba, Ấn Độ, Nhật Bản... Bên cạnh đó, nhà máy điện nguyên tử đã có đề án giao cho Bộ công thương chủ trì.

Chính những đóng góp ấy, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ được xem là “người tìm đường, mở lối” cho ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam.

Cuốn sổ ghi chép của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ khi làm việc tại Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna.

Cuốn sổ ghi chép của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ khi làm việc tại Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna.

Giáo sư Nguyễn Đình Tứ từ giã cõi đời vào năm 1996. Khâm phục và ngưỡng mộ những cống hiến thầm lặng, bền bỉ của ông cho ngành vật lý nói riêng và lĩnh vực giáo dục nói chung, năm 1999, các đồng nghiệp học trò của Nguyễn Đình Tứ đã tập hợp những công trình ông nghiên cứu về hạt để làm hồ sơ truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Việc này cũng nhận được sự đồng thuận của tập thể tác giả ở Liên Xô. Đặc biệt, hai nhà khoa học E.H.Kladniskaja và A.A.Kuznesov có những chia sẻ xúc động: “Chúng tôi - đồng nghiệp và đồng tác giả của phát minh phản hạt hyperon sigma âm, từng biết và làm việc với Giáo sư Nguyễn Đình Tứ ở Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna, nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ đề nghị trao tặng Giáo sư giải thưởng cao quý của Việt Nam về lĩnh vực Khoa học tự nhiên và kỹ thuật - Giải thưởng Hồ Chí Minh”.

Năm 2000, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ cho Cụm công trình “Nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và phát hiện phản hạt hyperon sigma âm”. Đến ngày 30/7/2007, ông được Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ. (Ảnh tư liệu)

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ. (Ảnh tư liệu)

Từng bộc bạch, bày tỏ sự ngưỡng mộ dành cho Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ cách đây 4 năm, nhân 89 năm ngày sinh của ông, Giáo sư, Tiến sĩ Cao Chi từng chia sẻ trên trang thông tin của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, rằng: “Anh Tứ đã đem hết tâm huyết của mình cho ngành điện hạt nhân, từ khâu tổ chức đến khâu đào tạo cán bộ, xây dựng các đề tài cấp Nhà nước phục vụ điện hạt nhân. Như chúng ta biết, trong thời gian qua, chúng ta đã có những phác thảo các quá trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận. Có thể nói, đây là một tiến bộ quan trọng trong chương trình điện hạt nhân, tiếc rằng vì điều kiện khách quan dự án bị dừng lại. Trong các thành công của điện hạt nhân phải công nhận công đầu thuộc về anh Nguyễn Đình Tứ”.

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Cao Chi (Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam), người đầu tiên nghĩ về điện hạt nhân một cách toàn diện và khoa học chính là Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ. Còn với hai nhà khoa học E.H.Kladniskaja và A.A.Kuznesov (Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna), việc Nguyễn Đình Tứ nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn xứng đáng.

Ngày xuất bản: 28/8/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - HỒNG VÂN
Thực hiện: NGUYỄN THANH HÓA - NGỌC KHÁNH
Trình bày: NGỌC DIỆP - CHIÊU ANH
Ảnh:
Bảo tàng Di sản các nhà khoa học Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội

E-Magazine I nhandan.vn