Trong bài phát biểu tại Phiên Bế mạc Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu rõ: “Nghiên cứu xây dựng luật theo định hướng: Các quy định của luật pháp phải cơ bản mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; những luật điều chỉnh các nội dung về kiến tạo phát triển chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì giao Chính phủ, bộ, ngành, địa phương quy định để đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp với thực tiễn”…
Phát biểu trên của Tổng Bí thư Tô Lâm đã một lần nữa nhấn mạnh lại tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đất nước ta vừa thực hiện thành công cuộc “sắp xếp lại giang sơn”, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Thành công ấy đến từ tổng hòa nhiều yếu tố, trong đó yếu tố tiên quyết là Chính phủ, Quốc hội đã quyết liệt triển khai thực hiện, kịp thời thể chế hóa thành công Nghị quyết 66 ngay tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV để có cơ sở pháp lý vững chắc thi hành chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng suốt của Đảng, sẵn sàng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình.
Bài 2
Trước khi có Nghị quyết 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị, công tác xây dựng pháp luật còn rất nhiều tồn tại, hạn chế. Nghị quyết 66 đã nêu rõ: “chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn”. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Tất cả đều đã được thẳng thắn chỉ rõ trong Nghị quyết 66.
Quy trình lập pháp còn nhiều hạn chế
Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết 66 đã nhấn mạnh, công tác xây dựng pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới... Tuy nhiên, phải thẳng thắn nhìn nhận, công tác xây dựng pháp luật, trong đó có quy trình lập pháp còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa theo kịp thực tiễn.
Là phóng viên nghị trường, qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, trước khi chưa tiến hành sửa Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) vẫn chưa tách bạch quy trình chính sách với việc lập Chương trình lập pháp hằng năm; chưa phân định rõ hơn quy trình chính sách và quy trình soạn thảo (cơ quan trình quyết định chính sách, Quốc hội quyết định dự thảo); chưa thu hẹp phạm vi các trường hợp phải thực hiện quy trình chính sách; chưa đơn giản hóa quy trình về tổng thể và tập trung thời gian, nguồn lực vào một số bước quan trọng để nâng cao chất lượng chính sách và dự thảo luật…
Do đó, quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL thường kéo dài. Ví dụ, sau khi tiến hành sửa đổi toàn diện Luật Ban hành VBQPPL tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV (tháng 2/2025), đối với các luật, pháp lệnh cần thực hiện quy trình chính sách gồm 4 bước cơ bản, trên cơ sở chính sách được thông qua thì sẽ tiến hành soạn thảo theo quy trình gồm 7 bước, trong đó đơn giản một số thủ tục hoặc một số loại hồ sơ, tài liệu. Theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, với quy trình mới này, có thể rút ngắn thời gian ban hành luật từ 22 xuống 10 tháng.
Cùng với đó, cũng tại Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi), đã sửa đổi, bổ sung quy định xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn ở tất cả các bước của cả quá trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo; đề cao tính tự quyết định, chịu trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan soạn thảo. Theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, thời gian để xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn chỉ khoảng 1 - 2 tháng, giảm được 6 - 8 tháng.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải (Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình)
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải (Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình)
Bên cạnh đó, tham gia ý kiến vào Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi), đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải (Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình) cho rằng, quy định Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết trong một kỳ họp (Điều 39, Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) 2025) thay vì 2 kỳ họp như trước đây, trừ một số trường hợp đặc biệt sẽ tạo ra những tiến bộ lớn, hiệu quả nếu chúng ta quản trị được các thách thức.
Theo đại biểu, thứ nhất, quy định này sẽ tạo ra sự linh hoạt và kịp thời trong điều chỉnh chính sách, phù hợp với những dự án luật mang tính cấp bách cần phải phản ứng nhanh với thực tiễn và giảm nguy cơ chậm ban hành văn bản luật ảnh hưởng đến công tác quản lý và điều hành nói chung của đất nước.
Thứ hai, giảm áp lực hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Với quy trình này, chúng ta sẽ cắt giảm một bước trình Quốc hội, giúp giảm tải công việc cho các cơ quan lập pháp và tạo điều kiện cho Quốc hội tập trung vào những nội dung quan trọng nhất của dự án luật.
Thứ ba, tiết kiệm chi phí và nhân lực, giảm bớt các quy định, giảm bớt các cuộc họp, các hội nghị, các thủ tục rà soát lặp đi lặp lại, giúp tiết kiệm thời gian, ngân sách và nhân sự cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan liên quan.
Nguồn lực con người làm công tác xây dựng pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu
Trong buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp (ngày 7/11/2024), Tổng Bí thư Tô Lâm đã bày tỏ nhất trí về chủ trương cần quan tâm đào tạo nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao và có cơ chế điều động, luân chuyển cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp đi địa phương để bổ sung kinh nghiệm thực tiễn.
Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng yêu cầu, phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt, thành thạo chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp theo tinh thần “dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”. Thường xuyên sàng lọc, thay thế, chuyển đổi vị trí công việc đối với những cán bộ tham mưu xây dựng pháp luật có biểu hiện động cơ không trong sáng, có dấu hiệu gây khó khăn, cản trở.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, trong thời gian qua, dù có rất nhiều tiến bộ, nguồn lực con người làm công tác xây dựng pháp luật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu đội ngũ chuyên gia chất lượng cao. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó, một nguyên nhân rất quan trọng đó là nguồn lực đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật còn rất hạn chế, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thu hút nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật cũng như đội ngũ chuyên gia chất lượng cao.
Nhận thức rõ vấn đề này và dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ đã có Quyết định số 916/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đến năm 2030”.
Một trong những mục tiêu của Đề án là hoàn thiện các quy định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức; về thu hút, trọng dụng người có tài năng, tạo cơ sở để thu hút người có tài năng làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật.
Đề án đặt ra mục tiêu, đến năm 2027, bảo đảm ít nhất 70% và đến hết năm 2030, phấn đấu đạt 100% các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật của bộ, ngành, địa phương.
Đến năm 2027, đạt 70% và đến hết năm 2030, phấn đấu đạt 100% cán bộ, công chức làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật được bồi dưỡng, tập huấn, cập nhật kiến thức, kỹ năng xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Trên cơ sở biên chế được giao, đến năm 2027 các bộ, ngành, địa phương xây dựng đội ngũ khoảng 200 công chức (tương ứng với 3 công chức/bộ, ngành và 2 công chức/địa phương) và đến năm 2030, phấn đấu đạt khoảng 300 công chức (tương ứng với 5 công chức/bộ, ngành và 3 công chức/địa phương) có đủ kiến thức, năng lực vượt trội và kinh nghiệm để trở thành lực lượng nòng cốt bồi dưỡng, dẫn dắt, phát triển nguồn nhân lực tham mưu xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương.
Khối lượng nhiệm vụ xây dựng pháp luật ngày càng gia tăng
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh
Theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, đặt trong bối cảnh đất nước ta bước vào “kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, thực hiện chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, phấn đấu tăng trưởng kinh tế “hai con số” và thế giới đang có những thay đổi mang tính thời đại thì yêu cầu, khối lượng nhiệm vụ, nhất là công tác xây dựng pháp luật ngày càng gia tăng.
Số liệu của Bộ Tư pháp cho thấy, năm 2022, số lượng VBQPPL của các cơ quan Trung ương ban hành là 745 văn bản, năm 2023 là 852 văn bản và năm 2024 là 1.043 văn bản. Như vậy, mức tăng khoảng 20% mỗi năm và dự báo sẽ còn tăng. Với những quy định mới của Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 và việc triển khai chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, chính quyền địa phương thì năm 2025 số lượng VBQPPL đã tăng lên rất nhiều.
Cụ thể, chỉ tính riêng tại Kỳ họp thứ 9 vừa qua, Quốc hội khóa XV đã thông qua 34 luật, chiếm 52,3% tổng số luật được ban hành tại 17 kỳ họp của nhiệm kỳ khóa XV. Cùng với đó, Quốc hội cũng đã thông qua 14 nghị quyết quy phạm pháp luật và cho ý kiến 6 dự án luật. Theo Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, đây là kỳ họp có khối lượng nội dung về công tác lập pháp nhiều nhất từ trước đến nay.
Cùng với đó, theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, yêu cầu về tính kịp thời trong giải quyết các vấn đề pháp lý với mức độ khó, phức tạp ngày càng cao; trách nhiệm, rủi ro của người làm công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật ngày càng lớn...
Chưa có chính sách đặc biệt thu hút nguồn nhân lực xây dựng pháp luật
Tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã khẳng định, Nhà nước còn chưa thực sự có chính sách đặc biệt, chế độ đãi ngộ phù hợp, tương xứng để thu hút, giữ chân và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác xây dựng pháp luật; điều kiện bảo đảm về tổ chức, bộ máy, biên chế còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, tính chất đặc thù của công việc trong xây dựng pháp luật.
Theo đó, chế độ tuyển dụng, sử dụng cán bộ thực hiện theo quy định chung và không có quy định riêng để thu hút được người tài vào làm công tác xây dựng pháp luật. Việc thu hút người có năng lực, nổi trội hiện thực hiện chung theo một số văn bản như: Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 5/12/2017 của Chính phủ về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; Nghị định số 179/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ quy định về chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng làm việc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Bên cạnh đó, các cơ quan chủ trì xây dựng chính sách và soạn thảo VBQPPL được mời chuyên gia với tư cách cá nhân tham gia Ban soạn thảo, Tổ biên tập của dự án luật nhưng chưa có cơ chế, chính sách hợp lý để huy động chuyên gia, nhà khoa học đóng góp vào quá trình xây dựng VBQPPL. Trong khi đó, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các đơn vị tư vấn pháp luật, các viện nghiên cứu, các tổ chức, hiệp hội đại diện doanh nghiệp và nhiều chuyên gia khoa học pháp lý, luật sư, luật gia có năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực tiễn có thể tham gia vào việc xây dựng chính sách và soạn thảo dự thảo VBQPPL.
Cùng với đó, cũng chưa có chính sách đủ mạnh để sử dụng chuyên gia giỏi (người Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài) tham gia vào một số nhiệm vụ nghiên cứu chính sách phục vụ xây dựng pháp luật của Việt Nam.
Theo Bộ trưởng Tư pháp, thực tiễn cũng cho thấy, hiện chưa có cơ chế đặc biệt về đãi ngộ, động viên về nguồn lực để thu hút, giữ chân nhân lực tham gia công tác xây dựng pháp luật
Theo Bộ trưởng Tư pháp, thực tiễn cũng cho thấy, hiện chưa có cơ chế đặc biệt về đãi ngộ, động viên về nguồn lực để thu hút, giữ chân nhân lực tham gia công tác xây dựng pháp luật; chưa có cơ chế để đội ngũ cán bộ, công chức yên tâm, tập trung làm việc, phát huy khả năng trong công tác xây dựng pháp luật.
Theo quy định tại Nghị định số 56/2024/NĐ-CP ngày 18/5/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 55/2011/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế, cán bộ, công chức làm công tác xây dựng chính sách, pháp luật hưởng thu nhập cơ bản là tiền lương (1 lần lương); nhóm cán bộ, công chức làm công tác pháp chế ở bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được hưởng mức hỗ trợ là 60.000 đồng/ngày làm việc, ở các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được hưởng mức hỗ trợ là 40.000 đồng/ngày làm việc. Thực trạng này góp phần dẫn đến việc tỷ lệ cán bộ, công chức có kinh nghiệm, năng lực xây dựng pháp luật không gắn bó lâu dài với công việc, có xu hướng tìm kiếm công việc khác bảo đảm thu nhập cao hơn.
Ở một khía cạnh khác, đã có một số quy định trong các VBQPPL ghi nhận chế độ đặc thù cho cán bộ, công chức theo ngành, địa phương. Cụ thể, theo Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010; Quyết định số 07/2013/QĐ-TTg ngày 24/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ thì tổng chi tiền lương, thu nhập của NHNN được quy định tối đa không quá 2,8 lần tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức. Hay quy định về việc công chức, viên chức của thành phố Hà Nội được hưởng từ chi thu nhập tăng thêm. Theo đó Điều 35 Luật Thủ đô năm 2024 quy định “tổng mức chi không vượt quá 0,8 lần quỹ lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Thành phố”.
Trong khi đó, theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Tư pháp, hiện có 37 loại vị trí việc làm hoặc cơ quan đã có cơ chế đặc biệt về tiền lương; có đơn vị được chi bổ sung thu nhập 3 lần tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ theo quy định.
Đại biểu Quốc hội Cao Thị Xuân (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa)
Đại biểu Quốc hội Cao Thị Xuân (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa)
Khi đóng góp ý kiến vào dự thảo Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, đại biểu Quốc hội Cao Thị Xuân (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa) đã bày tỏ sự tán thành cao với những đổi mới mạnh mẽ về cơ chế bảo đảm nguồn lực cho công tác xây dựng pháp luật quy định tại Điều 69 và Điều 70 của dự thảo luật, gồm cả đãi ngộ đặc biệt về nhân lực, tài lực, đầu tư hiện đại hóa để tăng cường ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo.
“Tôi cho rằng đây là sự đầu tư xứng đáng cho một hệ thống pháp luật, đáp ứng 12 tiêu chí mà Bộ Chính trị đã đề ra trong Kết luận 119 về tính dân chủ, chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả, minh bạch, dễ tiếp cận, dễ áp dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí và đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng”, đại biểu Cao Thị Xuân nhấn mạnh. Đồng thời đề nghị, với việc tách bạch quy trình xây dựng chính sách và hoạt động xây dựng dự thảo, cần quan tâm đầu tư ưu đãi nguồn lực ngay từ khâu nghiên cứu chính sách.
Khai mạc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Khai mạc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Nguồn lực cho hiện đại hóa công tác xây dựng pháp luật còn nhiều hạn chế
Cũng theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, nguồn lực cho hoạt động ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật còn nhiều hạn chế, chưa thực sự phù hợp, tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và đặc thù của ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật. Thực tiễn, hiện nay chưa có quy định đặc thù về phát triển công nghệ thông tin hỗ trợ công tác xây dựng pháp luật và gặp rất nhiều khó khăn.
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh dẫn chứng, hoạt động xây dựng VBQPPL hiện đang được thực hiện thủ công, chưa có các phần mềm hỗ trợ, mất rất nhiều công sức của người soạn thảo, khó tránh khỏi xảy ra sai sót. Chưa có hệ thống phần mềm hỗ trợ thiết lập định dạng mẫu văn bản để bảo đảm thống nhất về hình thức và phương thức xây dựng văn bản. Việc khai thác các thông tin phục vụ việc soạn thảo văn bản còn nhiều hạn chế do thiếu chuẩn hóa, thiếu đồng bộ của các hệ thống này.
Cùng với đó, việc quản lý chương trình xây dựng pháp luật, theo dõi, giám sát quá trình xây dựng pháp luật được thực hiện bằng các phương pháp thủ công. Thông tin, tài liệu, hồ sơ về dự thảo VBQPPL chưa được quản lý tập trung dẫn đến việc xây dựng pháp luật khó bảo đảm tiến độ và chất lượng xây dựng pháp luật. Việc chưa có cơ sở dữ liệu tập trung về hồ sơ dự thảo VBQPPL, người dân, doanh nghiệp không theo dõi được quá trình tiếp thu chỉnh lý dự thảo, các ý kiến giải trình, tiếp thu. Đồng thời, các cơ quan không có nguồn tư liệu đầy đủ cho các hoạt động đề xuất nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung VBQPPL sau này.
Ngoài ra, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo để thực hiện việc soạn thảo, rà soát VBQPPL để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống VBQPPL hiện hành đang ở bước nghiên cứu, chưa có sản phẩm, kết quả cụ thể. Vì vậy, các công việc như tập hợp VBQPPL có liên quan đến dự án, dự thảo văn bản cần rà soát; xác định văn bản cần rà soát, nội dung cần rà soát theo nhóm vấn đề; xác định các mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập trong các VBQPPL để đề xuất sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ VBQPPL, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật… là hoạt động vất vả, mất nhiều thời gian nhưng hoàn toàn được thực hiện bằng phương pháp thủ công.
Kinh phí chưa được bố trí tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ
Về tài chính, Theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, cơ chế tài chính hiện hành chưa bảo đảm đầy đủ, kịp thời nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động trong xây dựng pháp luật. Thực trạng định mức chi cho công tác xây dựng pháp luật hiện quá thấp, không bảo đảm chất lượng công tác xây dựng pháp luật và cần có quy định mới mang tính thay đổi cơ bản.
Theo đó, đánh giá tác động là khâu rất quan trọng và cần đầu tư nhiều nguồn lực nhưng chưa được quan tâm. Mức chi trung bình cho việc xây dựng một dự án luật mới, thay thế cao nhất là 2 tỷ đồng/dự thảo; xây dựng một dự thảo nghị định ban hành mới, thay thế là 90 triệu đồng/dự thảo và thấp nhất là kinh phí dành cho việc xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã là 8 triệu đồng/dự thảo; kinh phí cho toàn bộ thủ tục thẩm định dự thảo VBQPPL cao nhất là 22 triệu đồng và thấp nhất là 1,5 triệu đồng (dự thảo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh).
Bên cạnh đó, tổng kinh phí xây dựng VBQPPL còn khiêm tốn so với tổng chi ngân sách nhà nước (năm 2025, dự kiến tổng chi ngân sách nhà nước khoảng 2,5 triệu tỷ đồng). Số liệu thống kê cho thấy, kinh phí xây dựng pháp luật của các cơ quan ở Trung ương năm 2022 khoảng 75 tỷ đồng, năm 2023 khoảng 100 tỷ đồng, năm 2024 khoảng 110 tỷ đồng (kinh phí này tại các địa phương hàng năm khoảng 30-40 tỷ đồng); kinh phí thẩm định dự thảo VBQPPL và xây dựng chương trình Luật, Pháp lệnh trình Quốc hội tại Bộ Tư pháp khoảng 6 tỷ đồng/năm…
Theo Bộ trưởng Tư pháp, mức chi này thấp so với dự án đầu tư công và rất thấp so với mức đầu tư của các nước trên thế giới. Bộ Tư pháp dẫn chứng, ở Liên minh Châu Âu, chi phí từng công đoạn để xây dựng 1 đạo luật rất lớn. Chẳng hạn chỉ riêng giai đoạn nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách có thể lên đến hàng triệu euro cho các dự án lớn (như Đạo luật Trí tuệ nhân tạo (AI Act))…
Bên cạnh đó, theo Bộ trưởng Tư pháp, cơ chế khoán chi hiện tại mới được ghi nhận tại một số ít công đoạn của hoạt động xây dựng VBQPPL như thẩm định văn bản và cần có quy định mới mang tính thay đổi cơ bản, bảo đảm người làm công tác xây dựng pháp luật dành thời gian, trí tuệ vào công tác chuyên môn, có được sản phẩm với chất lượng tốt nhất (Cơ chế này tương đồng với lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đã được ghi nhận tại Nghị quyết số 193/2025/QH15).
Với hàng loạt những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế nêu trên, Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời đã nhận diện rõ; định hình và thay đổi tư duy xây dựng pháp luật; định hướng các cơ chế, chính sách đặc biệt, đặc thù trong công tác xây dựng pháp luật, trong đó có chủ trương đầu tư mạnh mẽ các nguồn lực… nhằm thúc đẩy công tác xây dựng pháp luật bước sang một trang mới, xứng đáng với vai trò, sứ mệnh tháo gỡ những “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”.
Ngày xuất bản: 19/8/2025
Chỉ đạo: Kim Phương Bình
Tổ chức: Bùi Nam Đông
Nội dung: Vũ Quang Cảnh
Trình bày: Nhị Thu
Ảnh: Báo Nhân Dân, Báo Thanh Niên, Cổng thông tin Điện tử Quốc hội