80 NĂM BẢN LĨNH TIÊN PHONG:

ĐẢNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO BẰNG CHUYỂN ĐỔI SỐ

Trong suốt 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn biết đổi mới để đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử. Hôm nay, chuyển đổi số trong các cơ quan đảng theo Quyết định số 204-QĐ/TW tiếp tục khẳng định bước tiến chiến lược: từ điều hành dựa vào kinh nghiệm sang quản trị bằng dữ liệu; từ quy trình thủ công sang môi trường số hóa; từ văn hóa hành chính truyền thống sang văn hóa số hiện đại. Đây là minh chứng rõ rệt cho quyết tâm chính trị của Đảng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, giữ vững vai trò tiên phong trong thời đại số.

Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với đồng chí Đào Văn Thành, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số-Cơ yếu (Văn phòng Trung ương) về việc triển khai Đề án Chuyển đổi số trong các cơ quan đảng theo Quyết định số 204-QĐ/TW của Ban Bí thư.

Phóng viên: Quyết định số 204-QĐ/TW ngày 29/11/2024 của Ban Bí thư đã phê duyệt Đề án Chuyển đổi số trong các cơ quan đảng với mục tiêu tạo chuyển biến toàn diện, mạnh mẽ, thực chất trong phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Vậy theo ông, đâu là những thay đổi căn bản nhất về tư duy và phương thức vận hành mà chuyển đổi số sẽ mang lại cho các cơ quan đảng?

Ông Đào Văn Thành: Quyết định số 204-QĐ/TW có thể coi là một bước đột phá chiến lược của Đảng trong công cuộc đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Văn kiện này khẳng định rõ quan điểm xuyên suốt: chuyển đổi số không chỉ dừng ở việc ứng dụng công nghệ thông tin, mà chính là đổi mới toàn diện tư duy lãnh đạo, quản lý và cách thức vận hành của cả hệ thống cơ quan đảng. Nói cách khác, đây là sự thay đổi căn bản từ “ứng dụng công nghệ” sang “đổi mới mô hình lãnh đạo”. Có thể khái quát thành ba thay đổi căn bản.

Thứ nhất, đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý. Trước đây, công tác điều hành của các cơ quan đảng nhiều khi còn dựa vào kinh nghiệm và cảm tính, dẫn tới sự chậm trễ trong xử lý, thiếu nhất quán trong thông tin. Chuyển đổi số đã tạo ra bước ngoặt: thay vì “quản lý bằng kinh nghiệm”, nay là “quản trị bằng dữ liệu”. Hệ thống thông tin được kết nối cho phép lãnh đạo, cán bộ nắm bắt tức thời, chính xác và minh bạch tình hình. Nhờ đó, các quyết sách được ban hành nhanh chóng hơn, kịp thời hơn, đồng thời bảo đảm tính khoa học và khách quan. Đây chính là nền tảng để xây dựng phong cách lãnh đạo dựa trên dữ liệu, minh bạch và kiểm chứng được.

Thứ hai, thay đổi mạnh mẽ phương thức làm việc. Một loạt chuyển dịch căn bản đã diễn ra: từ quy trình thủ công sang môi trường số hóa; từ văn bản giấy sang điều hành điện tử; từ hội họp truyền thống sang hội nghị trực tuyến, không giấy tờ, bảo mật cao. Những con số minh chúng rõ nét cho sự thay đổi: Hệ thống hệ điều hành tác nghiệp hiện có hơn 120.000 tài khoản, ghi nhận trên 100.000 lượt truy cập mỗi ngày; số văn bản luân chuyển qua hệ thống vượt 500.000 văn bản/ngày, kể cả văn bản mật. Hệ thống giám sát và đánh giá Nghị quyết 57 có trên 30.000 tài khoản, với khoảng 4.000 lượt sử dụng thường xuyên mỗi ngày, đang theo dõi gần 900 nhiệm vụ. Đặc biệt, việc cung cấp tài liệu, thông tin qua máy tính bảng cho đại biểu tại Hội nghị Trung ương 11, 12 khóa XIII, cũng như các phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đã khẳng định bước tiến mới, tiến tới mục tiêu áp dụng tại Đại hội XIV sắp tới. Những kết quả này không chỉ giúp tiết kiệm thời gian, chi phí mà còn bảo đảm độ chính xác, bảo mật cao.

Thứ ba, hình thành văn hóa tổ chức mới trong Đảng. Chuyển đổi số không chỉ là sự thay đổi về công cụ, mà quan trọng hơn là tạo nên văn hóa làm việc mới: đề cao tính hiệu quả, trách nhiệm, liên thông và minh bạch. Mỗi cán bộ, đảng viên được đặt trong một môi trường buộc phải nâng cao năng lực tham mưu, tinh thần trách nhiệm và khả năng phối hợp. Từ đó, sức chiến đấu và hiệu quả phục vụ của các cơ quan đảng được nâng lên rõ rệt. Đây cũng là quá trình hình thành “văn hóa số trong Đảng”, phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng.

Có thể khẳng định, ba thay đổi căn bản nêu trên vừa mang tính kỹ thuật, vừa mang tính phương pháp luận, đặt nền tảng cho đổi mới tư duy cầm quyền của Đảng trong thời đại số. Chuyển đổi số vì vậy không phải là một lựa chọn “thêm vào”, mà là yêu cầu tất yếu để nâng cao năng lực lãnh đạo và khẳng định vai trò tiên phong của Đảng.

Phóng viên: Từ khi Quyết định số 204-QĐ/TW được ban hành đến nay, quá trình triển khai bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, theo ông, đâu là những khó khăn, vướng mắc lớn nhất hiện nay? Và Ban Chỉ đạo đang có những giải pháp cụ thể nào để kịp thời tháo gỡ?

 Ông Đào Văn Thành: Có thể khẳng định, sau gần 9 tháng triển khai, Đề án đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực, nhất là trong việc hình thành nền tảng số bước đầu phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cũng bộc lộ ba nhóm khó khăn lớn cần khẩn trương tháo gỡ.

Trước hết, hạ tầng số giữa các cơ quan chưa đồng bộ. Nhiều hệ thống hiện có chưa đủ năng lực đáp ứng yêu cầu xử lý dữ liệu lớn, bảo mật cao, trong khi một số địa phương chưa kịp đầu tư bổ sung trang thiết bị do mới sáp nhập, thời gian chuẩn bị ngắn. Thực trạng này dẫn đến sự chênh lệch về năng lực công nghệ, khiến việc kết nối, trao đổi dữ liệu toàn hệ thống chưa đạt hiệu quả mong muốn.

Khó khăn tiếp theo đến từ nhận thức về kỹ năng số. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt ở cấp cơ sở còn lúng túng trong sử dụng công nghệ, chưa thật sự quen làm việc trên môi trường số. Tư duy quản lý truyền thống nặng về giấy tờ, tâm lý ngại thay đổi vẫn tồn tại, làm chậm tiến trình chuẩn hóa và số hóa quy trình công việc.

Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp và chia sẻ dữ liệu còn nhiều bất cập. Các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội hiện chưa có một quy định thống nhất, bắt buộc trong kết nối, chia sẻ dữ liệu. Việc phối hợp còn mang tính tự nguyện, dẫn tới tình trạng chia sẻ rời rạc, thiếu tính liên thông, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo.

Để tháo gỡ những khó khăn trên, Ban Chỉ đạo đã và đang chỉ đạo triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.

Trước hết, tập trung hoàn thiện quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật chung, xây dựng cơ chế thống nhất bảo đảm an toàn, an ninh thông tin; đồng thời bổ sung trang thiết bị cho các cơ quan còn thiếu, nhất là ở cấp địa phương.

Tiếp đến, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số cho cán bộ, đảng viên theo từng nhóm đối tượng, từ lãnh đạo đến cán bộ tham mưu, gắn với yêu cầu thực tiễn nhằm hình thành tư duy dữ liệu, văn hóa số và ý thức bảo mật. Song song với đó là xây dựng ban hành các quy định chia sẻ, liên thông dữ liệu thống nhất: Bộ Công an đang soạn thảo Quy định về kết nối, chia sẻ dữ liệu bắt buộc trong hệ thống chính trị; Văn phòng Trung ương Đảng cũng đang hoàn thiện Quy định về chia sẻ thông tin dữ liệu giữa các cơ quan Đảng với các cơ quan trong hệ thống chính trị.

Những giải pháp này nếu được thực thi quyết liệt và đồng bộ, sẽ từng bước tháo gỡ các “nút thắt” hiện nay, bảo đảm cho tiến trình chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng đi đúng lộ trình, thực chất và hiệu quả.

Phóng viên: Một trong những mục tiêu trọng tâm của Đề án là nâng cao hiệu quả công việc, rút ngắn thời gian xử lý, góp phần cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan đảng. Theo ông, để hiện thực hóa mục tiêu này, đâu là những “điểm nghẽn” cần tháo gỡ sớm?

Ông Đào Văn Thành: Để nâng cao hiệu quả công việc và rút ngắn thời gian xử lý trong các cơ quan đảng, trước hết cần nhìn thẳng vào những rào cản đang tồn tại. Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay chính là sự thiếu đồng bộ trong hệ thống nền tảng số. Giai đoạn trước, mỗi cơ quan, đơn vị đều có đầu tư riêng, xây dựng hệ thống thông tin chuyên ngành của mình một cách độc lập, thiếu khả năng tích hợp, chia sẻ, khó sử dụng, dữ liệu phân tán, chưa đảm bảo “đúng, đủ, sạch, sống”, chưa kết nối, tích hợp và khai thác được dữ liệu từ các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của cơ quan nhà nước. Nếu không tháo gỡ, tình trạng này sẽ làm suy giảm hiệu quả vận hành của toàn bộ hệ thống.

Một điểm nghẽn khác nằm ở quy trình công việc. Nhiều cơ quan vẫn duy trì cách làm thủ công, phụ thuộc nhiều vào hồ sơ giấy tờ, khiến quy trình xử lý vừa kéo dài vừa tiềm ẩn sai sót. Khi quy trình chưa được chuẩn hóa và số hóa toàn diện, các ứng dụng công nghệ chỉ có thể vận hành ở mức cục bộ, không phát huy hết giá trị. Điều này làm cho mục tiêu cải cách thủ tục hành chính trong Đảng chưa đạt được như mong muốn.

Ngoài ra, tâm lý ngại thay đổi của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng là thách thức đáng lưu ý. Thói quen xử lý công việc theo lối truyền thống, thiếu sẵn sàng tiếp cận công nghệ mới, dẫn đến hiệu quả khai thác nền tảng số chưa cao. Nếu không có sự chuyển biến trong nhận thức và hành động, việc hình thành văn hóa làm việc số trong các cơ quan Đảng sẽ khó đi vào thực chất.

 Giải pháp căn cơ là phải chuẩn hóa toàn bộ quy trình công việc, sau đó số hóa một cách triệt để để bảo đảm sự đồng bộ và liền mạch. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện khung pháp lý về thủ tục hành chính trong Đảng, làm cơ sở cho việc triển khai thống nhất trên môi trường số. Nền tảng số chung phải được triển khai đồng bộ, tạo điều kiện cho việc tích hợp và chia sẻ dữ liệu một cách an toàn, nhanh chóng và minh bạch. Song song với đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn liền với giao nhiệm vụ cụ thể và trách nhiệm cá nhân, để buộc mỗi cán bộ chủ động thay đổi thói quen, từng bước làm chủ công nghệ mới.

 Chỉ khi những điểm nghẽn này được tháo gỡ, mục tiêu nâng cao hiệu quả công việc, rút ngắn thời gian xử lý và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan Đảng mới có thể đạt được một cách thực chất. Đây không chỉ là cải tiến về kỹ thuật, mà còn là bước tiến về văn hóa tổ chức, góp phần xây dựng một nền hành chính Đảng hiện đại, minh bạch và hiệu quả.

Phóng viên: Đề án xác định rõ việc tổ chức hạ tầng số, nền tảng số tổng thể, đồng bộ, hiện đại là điều kiện tiên quyết. Vậy ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về lộ trình tái cấu trúc hạ tầng kỹ thuật và giải pháp kết nối, chia sẻ và bảo vệ dữ liệu giữa các cơ quan đảng, với cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội?

Ông Đào Văn Thành: Đúng như trong Đề án đã khẳng định, xây dựng hạ tầng số đồng bộ và hiện đại là điều kiện tiên quyết, bởi nếu thiếu nền tảng kỹ thuật thì mọi giải pháp chuyển đổi số chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, đơn lẻ, không thể triển khai đồng bộ. Lộ trình tái cấu trúc hạ tầng kỹ thuật đã được xác định rõ ràng, đi từng bước một cách thận trọng nhưng quyết liệt.

Trước hết, toàn bộ hệ thống hạ tầng hiện có cần được rà soát kỹ lưỡng để nhận diện các điểm yếu, điểm nghẽn, không chỉ về hạ tầng kỹ thuật, mà cả về ứng dụng và dữ liệu hiện có. Đây là bước khởi đầu quan trọng nhằm tránh đầu tư dàn trải, chồng chéo và để xác định đâu là những khâu cần ưu tiên xử lý. Việc rà soát này không chỉ diễn ra ở cấp Trung ương, mà còn được triển khai đến từng địa phương, đơn vị, bảo đảm tính toàn diện và chính xác.

Tiếp đó, các cơ quan sẽ tiến hành đầu tư nâng cấp hạ tầng theo chuẩn kỹ thuật chung, bảo đảm khả năng mở rộng, tích hợp và tương thích cao. Hệ thống mới phải vừa đủ mạnh để xử lý dữ liệu lớn, vừa đủ linh hoạt để đáp ứng yêu cầu đa dạng, có khả năng kết nối mở với các nền tảng khác, đồng thời bảo đảm an ninh, an toàn ở cấp độ cao. Việc đầu tư lần này hướng tới một hạ tầng lâu dài, có thể phục vụ cho các mục tiêu trước mắt và cả chiến lược lâu dài của Đảng trong thời đại số.

Bước quan trọng tiếp theo là thiết lập nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu thống nhất giữa các cơ quan Đảng với các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội.

Song song với đó, việc chuẩn hóa dữ liệu, ban hành quy định và cơ chế bắt buộc kết nối, chia sẻ là yêu cầu then chốt để các hệ thống của từng cơ quan có thể liên thông, vận hành thông suốt. Nguyên tắc đặt ra là phải đồng bộ, liên thông và tuyệt đối bảo mật. Đặc biệt, ngành Cơ yếu sẽ đảm nhiệm việc áp dụng các giải pháp bảo mật tiên tiến nhất, từ mã hóa đến giám sát an toàn thông tin tập trung, áp dụng nguyên tắc “không mặc định tin cậy”, xác thực liên tục và đa yếu tố. Đây là giải pháp căn cơ để bảo vệ toàn diện dữ liệu trong bối cảnh an ninh mạng ngày càng phức tạp.

Có thể nói, với lộ trình ba bước này, việc tái cấu trúc hạ tầng số không chỉ tạo ra nền tảng kỹ thuật hiện đại, mà còn mở đường cho kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu trong toàn hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của Đảng trong bối cảnh mới, đồng thời bảo đảm tính bền vững, lâu dài cho tiến trình chuyển đổi số trong toàn hệ thống chính trị. 

Phóng viên: Với vai trò là cơ quan thường trực giúp việc Ban Chỉ đạo Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng đã và đang làm gì để đảm bảo việc triển khai đồng bộ hệ thống thông tin, đồng thời tận dụng hiệu quả hạ tầng, nền tảng số đã có, tránh đầu tư chồng chéo, dàn trải?

 Ông Đào Văn Thành: Văn phòng Trung ương Đảng với vai trò cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo đã tập trung chỉ đạo sát sao để bảo đảm việc triển khai đồng bộ hệ thống thông tin trong toàn Đảng, tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, lãng phí và dàn trải. Việc này được thực hiện theo ba hướng trọng tâm.

 Một là, xây dựng và ban hành Kiến trúc chuyển đổi số trong các cơ quan đảng (phiên bản 3.0). Đây được coi như “bản thiết kế tổng thể” để mọi hoạt động đầu tư và phát triển hệ thống thông tin đều tuân theo một chuẩn chung, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Các hệ thống đều được thiết kế đồng bộ, bảo đảm sự liên thông và tương thích.

 Hai là, siết chặt công tác thẩm định kỹ thuật trước khi triển khai đầu tư mới. Tất cả các dự án đều phải được đánh giá toàn diện về mặt kỹ thuật, tính khả thi, tính liên thông trước khi phê duyệt. Cách làm này giúp ngăn chặn tình trạng mỗi đơn vị đầu tư riêng lẻ, gây lãng phí nguồn lực và khó khăn trong kết nối sau này.

 Ba là, tổ chức kết nối, chia sẻ hạ tầng và cơ sở dữ liệu không chỉ trong nội bộ Đảng, mà còn mở rộng tới các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội. Việc kết nối này bảo đảm tránh được trùng lặp đầu tư, đồng thời phát huy tối đa hiệu quả từ những nền tảng đã được triển khai.

 Ngoài ra, Văn phòng Trung ương Đảng cũng đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, giám sát tiến độ và chất lượng triển khai. Mục tiêu đặt ra là bảo đảm hoàn thành đúng hạn, đúng chuẩn, không để xảy ra tình trạng chậm trễ kéo dài hoặc triển khai nửa vời. Những giải pháp này vừa giúp tiết kiệm nguồn lực, vừa phát huy hiệu quả thiết thực trong hoạt động của các cơ quan đảng.

Đồng chí Đào Văn Thành, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số-Cơ yếu (Văn phòng Trung ương) trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân.

Đồng chí Đào Văn Thành, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số-Cơ yếu (Văn phòng Trung ương) trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân.

Phóng viên: Nguồn nhân lực được xem là yếu tố then chốt đảm bảo thành công của Đề án. Vậy trong giai đoạn 2025-2028, Cục Chuyển đổi số – Cơ yếu có những định hướng nào để đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ năng lực làm chủ công nghệ, gương mẫu đi đầu trong chuyển đổi số?

 Ông Đào Văn Thành: Nguồn nhân lực luôn được xác định là trụ cột quan trọng, bên cạnh thể chế và công nghệ. Nếu không có đội ngũ cán bộ đủ năng lực, mọi hạ tầng hay phần mềm cũng chỉ là công cụ vô tri. Chính vì vậy, trong giai đoạn 2025-2028, Cục Chuyển đổi số – Cơ yếu đã đề ra bốn định hướng trọng tâm trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

 Trước hết là đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin và cơ yếu. Đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp vận hành và quản trị hệ thống, bảo đảm các yêu cầu khắt khe về an toàn, bảo mật.

 Song song với đó, các chương trình đào tạo được thiết kế riêng cho từng nhóm đối tượng. Lãnh đạo cấp ủy cần được trang bị kiến thức để chỉ đạo, giám sát; cán bộ văn phòng cần kỹ năng sử dụng phần mềm và xử lý văn bản điện tử; đội ngũ chuyên trách công nghệ thông tin – cơ yếu cần kỹ năng chuyên sâu về bảo mật, quản trị hệ thống; cán bộ tham mưu cần tư duy dữ liệu và văn hóa số. Cách tiếp cận theo nhóm đối tượng này giúp đào tạo đúng trọng tâm, phát huy hiệu quả.

 Một định hướng khác là nâng cao kỹ năng số cho toàn thể cán bộ, đảng viên. Không ai đứng ngoài quá trình chuyển đổi số, vì vậy mỗi cán bộ đều phải biết sử dụng thành thạo các nền tảng triển khai tại cơ quan, kết hợp giữa hình thức đào tạo trực tuyến và trực tiếp, gắn liền với thực hành thực tế.

 Quan trọng hơn cả là hình thành đội ngũ cán bộ nòng cốt am hiểu công nghệ, nắm vững nguyên tắc, quy định của Đảng, có khả năng dẫn dắt và lan tỏa chuyển đổi số xuống tận cơ sở. Đặc biệt, cấp xã – nơi được coi là mắt xích yếu trong triển khai – sẽ được chú trọng để bảo đảm sự đồng bộ từ trên xuống dưới.

 Như vậy, mục tiêu không chỉ là trang bị kỹ năng sử dụng, mà còn là thay đổi tư duy từ thủ công sang tư duy số, từ vận hành truyền thống sang làm chủ công nghệ. Đây chính là yếu tố quyết định để Đề án 204 thành công một cách thực chất và bền vững.

Phóng viên: Trong bối cảnh đất nước đã gần 80 năm giành độc lập, ông nhìn nhận việc triển khai Đề án chuyển đổi số trong các cơ quan đảng theo Quyết định 204-QĐ/TW mang ý nghĩa như thế nào đối với tiến trình đổi mới tư duy cầm quyền, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời đại số và hội nhập sâu rộng?

Ông Đào Văn Thành: Việc triển khai Đề án chuyển đổi số trong các cơ quan đảng theo Quyết định 204-QĐ/TW mang ý nghĩa chiến lược sâu sắc, đặc biệt khi đất nước ta đã gần 80 năm giành độc lập. Đây không chỉ là một nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là bước đi thể hiện rõ tư duy đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng trong thời đại số.

 Trước hết, Đề án thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, khẳng định sự chủ động đổi mới phương thức lãnh đạo và chỉ đạo trên nền tảng công nghệ và dữ liệu hiện đại. Việc này cho thấy Đảng không chỉ đi cùng thời đại, mà còn tiên phong trong việc ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ để nâng cao năng lực lãnh đạo.

 Cùng với đó, chuyển đổi số được gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính trong Đảng. Đây là bước đi nhằm xây dựng một tổ chức Đảng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong bối cảnh mới, đồng thời đáp ứng kỳ vọng của nhân dân về một bộ máy minh bạch, hiện đại.

 Đề án cũng cụ thể hóa quá trình Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực quản trị, qua đó bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số toàn cầu. Điều này không chỉ củng cố vị thế của Đảng trong nước, mà còn tạo dựng hình ảnh một Đảng tiên phong, sáng tạo, thích ứng nhanh với những biến động toàn cầu.

 Xa hơn, việc triển khai Đề án đặt nền móng cho một nền hành chính Đảng kiểu mẫu: an toàn, minh bạch, hiện đại. Đây là minh chứng rõ ràng cho cam kết chính trị về đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững đất nước.

 Nhìn lại chặng đường 80 năm, Đảng ta luôn biết đổi mới để dẫn dắt dân tộc đi tới thành công. Trong thời đại số hôm nay, lựa chọn mô hình lãnh đạo dựa trên dữ liệu, minh bạch và khoa học chính là con đường để củng cố niềm tin của nhân dân và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng.

 Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Ngày xuất bản: 31/8/2025
Tổ chức thực hiện: NAM ĐÔNG
Thực hiện: QUỲNH LAN-MINH PHƯƠNG
Trình bày: BẢO MINH
Ảnh: BÁO NHÂN DÂN, TTXVN