Sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đạt những thành tựu to lớn có nghĩa lịch sử. Uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Việc sắp xếp, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, tinh giản, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả đã đạt những kết quả bước đầu quan trọng, tạo tiền đề để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Trong suốt tiến trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng tổng kết, đánh giá những thành công, hạn chế, đúc rút những bài học kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn. Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam đúc kết 5 bài học kinh nghiệm . Trong đó, bài học kinh nghiệm thứ nhất bổ sung thêm thành tố: “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước” là bước phát triển lý luận mới của Đảng ta trong lãnh đạo đất nước, có giá trị định hướng quan trọng trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Đồng thời, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng vạch ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ 5 năm 2026-2030, có nhiều điểm mới, cả về nội dung và hình thức. Đặc biệt, trong 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới tại Dự thảo Báo cáo chính trị, lần đầu tiên đưa ra những quan điểm chỉ đạo mới.
Trong quan điểm chỉ đạo thứ nhất, Đảng đã bổ sung “lý luận về đường lối đổi mới” vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, cũng bổ sung quan điểm “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước”. Việc thống nhất giữa một số quan điểm nêu trong Quan điểm chỉ đạo thứ nhất với Bài học kinh nghiệm thứ nhất sau 40 năm đổi mới, là sự khẳng định quan điểm nhất quán kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, trên cơ sở từ tổng kết thực tiễn đổi mới.
Đảng xác định mối quan hệ biện chứng giữa phát triển và ổn định, “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước”, trong đó xác định vấn đề căn bản là phát triển, “lấy phát triển để ổn định”. Quan điểm “lấy phát triển để ổn định” là bài học được Đảng đúc kết qua các chặng đường lịch sử, đặc biệt là trong những thời điểm nhiều khó khăn, thách thức.
Trong thập niên 80 thế kỷ XX, Việt Nam đối mặt với những thách thức nghiêm trọng. Các thế lực thù địch, phản động quốc tế bao vây cấm vận toàn diện, ra sức chống phá về mọi mặt. Lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu thốn, tình hình tư tưởng diễn biến phức tạp, đẩy cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội ngày càng trầm trọng. Tình hình đó diễn ra trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế diễn biến phức tạp. Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô tiến hành cải cách, cải tổ, không thành công dẫn đến suy yếu, Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời, từng bước đổi mới chính trị phù hợp với phát triển kinh tế.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời, từng bước đổi mới chính trị phù hợp với phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) xác định đổi mới bắt đầu từ “đổi mới tư duy”, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế; trong đó, đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời, từng bước đổi mới chính trị phù hợp với phát triển kinh tế. Đảng chủ trương đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, “kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, giữ vững hòa bình, tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định và phát triển kinh tế-xã hội...” .
Đảng chỉ đạo kết hợp giữa cải cách từng bước những vấn đề “nóng” như lao động, tiền lương, cải cách doanh nghiệp nhà nước, nông nghiệp... là chủ yếu, kết hợp với cải cách một cách kiên quyết, dứt điểm những lĩnh vực phải có sự thay đổi chính sách mạnh mẽ như: bỏ hệ thống tem phiếu, bỏ trợ cấp qua giá, loại bỏ chế độ 2 giá chuyển sang vận dụng hệ thống giá cả thị trường, tỷ giá và tiền tệ; kết hợp giữa cải cách nền kinh tế với hội nhập kinh tế quốc tế.
Do phương pháp cải cách đúng hướng, với tư duy chỉ đạo quyết liệt, Việt Nam đã vượt qua thử thách khắc nghiệt những năm 90, đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nước phụ thuộc vào viện trợ, nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã tự túc được lương thực, trở thành nước xuất khẩu nông-thủy sản quan trọng.
Việt Nam tích cực và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, quan hệ quốc tế và thương mại quốc tế mở rộng mạnh mẽ. (Ảnh: Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Phiên thảo luận thứ ba của Hội nghị Thượng đỉnh G20 ngày 24/11/2025. Nguồn: VGP)
Việt Nam tích cực và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, quan hệ quốc tế và thương mại quốc tế mở rộng mạnh mẽ. (Ảnh: Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Phiên thảo luận thứ ba của Hội nghị Thượng đỉnh G20 ngày 24/11/2025. Nguồn: VGP)
Ưu điểm nổi bật trong cải cách ở Việt Nam là đã vượt qua thế bị bao vây và cấm vận kinh tế. Từ một nước chỉ có quan hệ kinh tế, thương mại chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, Việt Nam đã tích cực và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, quan hệ quốc tế và thương mại quốc tế mở rộng mạnh mẽ, tạo điều kiện để Việt Nam phát huy lợi thế so sánh.
Từ năm 1996 đến nay, Đảng đã phát triển nhận thức về trụ cột chính trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm bảo đảm sự phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là:
(1) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
(2) Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(3) Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cùng với xác định phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Đảng đã đề ra 3 đột phá chiến lược để thúc đẩy phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Đảng xác định 3 đột phá chiến lược gồm:
1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, về môi trường và quốc phòng, an ninh.
Việt Nam từ một nước nghèo, cơ sở vật chất-kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Quy mô nền kinh tế năm 2025 đạt khoảng 510 tỷ USD (tăng 110 lần so với mức 4,5 tỷ USD của năm 1986), đưa Việt Nam tham gia vào nhóm 35 nền kinh tế lớn nhất thế giới; thu nhập bình quân đầu người đạt gần 5.000 USD.
Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Đến tháng 10/2024: Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch thương mại tăng hơn gấp đôi, từ 350 tỷ USD (2016) lên 786 tỷ USD (2024). Đến cuối năm 2024, có 73 quốc gia (trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam) công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Đến tháng 9/2025, Việt Nam có quan hệ ngoại giao đầy đủ với 193/193 nước thành viên Liên hợp quốc. Đến tháng 10/2025, Việt Nam có quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với 14 quốc gia . Việt Nam chủ động tham gia các sáng kiến, chiến lược của các nước trong khu vực về chuỗi cung ứng và dần vươn lên vị trí cao hơn trong chuỗi cung ứng khu vực và quốc tế.
Bước vào kỷ nguyên mới, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, khó lường. Đảng nhận thức và chỉ rõ những khó khăn, thách thức như: 4 nguy cơ mà Đảng chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt dần được khắc phục, song có mặt gay gắt hơn. Sức chống chịu và năng lực tự chủ chiến lược của nền kinh tế còn yếu. Vai trò của các thể chế đa phương bị suy giảm, tác động nhiều mặt đến nền kinh tế Việt Nam. Sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra những vấn đề mới đối với sản xuất thương mại và an sinh xã hội. Quốc phòng an ninh luôn đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong bối cảnh đó, bài học và quan điểm chỉ đạo: “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước” có giá trị định hướng có ý nghĩa quan trọng quyết định đối với sự phát triển bền vững đất nước. Đây là quan điểm thể hiện sự vận dụng phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lãnh đạo thực tiễn.
Để thực hiện quan điểm “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước”, trên cơ sở xác định rõ 2 mục tiêu 100 năm, Đảng cần dự báo chiến lược, đánh giá đúng thuận lợi, thời cơ để nắm bắt kịp thời, đồng thời nhận diện những khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; phát triển kinh tế tư nhân là một động lực phát triển quan trọng nhất của nền kinh tế; đẩy mạnh các đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế là những động lực to lớn đối với sự phát triển.
Bên cạnh phát triển kinh tế, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế.
Bên cạnh phát triển kinh tế, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế.
Quan điểm “lấy phát triển để ổn định” cần được quán triệt vào các lĩnh vực, các mặt của đời sống kinh tế-xã hội. Chẳng hạn, cần có nhận thức mới về vấn đề bảo vệ môi trường là trung tâm của sự phát triển bền vững.
Cần nhận thức vấn đề bảo vệ môi trường không tách rời phát triển kinh tế, không phải là gánh nặng đối với nền kinh tế mà là một lĩnh vực kinh tế mới. Bởi trong phát triển kinh tế có kinh tế môi trường. Tức là với yêu cầu bảo vệ môi trường đã thúc đẩy lĩnh vực khoa học, công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển các lĩnh vực sản xuất trang thiết bị, phương tiện theo công nghệ mới phục vụ cho ngành môi trường.
Cần có nhận thức mới về vấn đề bảo vệ môi trường là trung tâm của sự phát triển bền vững.
Cần có nhận thức mới về vấn đề bảo vệ môi trường là trung tâm của sự phát triển bền vững.
Đồng thời, ngành giáo dục đào tạo về lĩnh vực môi trường cũng ra đời, đáp ứng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của lĩnh vực này. Bảo đảm cân bằng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, nhận thức rõ môi trường cũng là lĩnh vực kinh tế.
Bảo vệ môi trường đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế môi trường, văn hóa môi trường, văn minh môi trường; việc bảo vệ môi trường trở thành một bộ phận của thước đo văn minh xã hội. Cũng từ vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường – một vấn đề thuộc an ninh phi truyền thống, được thực hiện tốt là củng cố an ninh quốc gia, nâng cao vị thế Việt Nam trên lĩnh vực hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Quan điểm “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước” đặt ra yêu cầu tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên phát triển mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam, với Cương lĩnh chính trị đúng đắn là ngọn cờ đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân đồng thuận, đồng lòng, đồng sức thực hiện khát vọng phát triển. Trong đó, vai trò, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng là trụ cột của sự tác động, chuyển hóa giữa phát triển và ổn định.
Vận dụng bài học kinh nghiệm và thực hiện quan điểm chỉ đạo “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước” là nhân tố có ý nghĩa quyết định để bảo đảm thực hiện mục tiêu chủ yếu mà dự thảo văn kiện Đại hội XIV đã xác định: “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phát triển nhanh, bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; cải thiện và nâng cao toàn diện đời sống nhân dân; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên mới của dân tộc; thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” .
Trong bối cảnh tình hình thế giới đầy biến động, khó đoán định hiện nay, bài học “lấy phát triển để ổn định và ổn định để thúc đẩy phát triển bền vững”, thực sự là chỉ dẫn thực tiễn. Bởi tiến trình đổi mới đất nước trong kỷ nguyên phát tiển mới, với không gian mở, đất nước có phát triển, đáp ứng yêu cầu lịch sử, nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân thì mới ổn định; và đất nước ổn định mới có điều kiện để phát triển, không ổn định không thể phát triển.
Việc phát huy các bài học chính là kế thừa những thành công từ thực tiễn đổi mới, đồng thời là “chìa khóa” để giải quyết các bài toán phát triển nhanh, bền vững.
Việc phát huy các bài học chính là kế thừa những thành công từ thực tiễn đổi mới, đồng thời là “chìa khóa” để giải quyết các bài toán phát triển nhanh, bền vững. Các bài học chính là cơ sở bảo đảm sự liên tục về tầm nhìn và tính nhất quán trong nguyên tắc hoạch định chiến lược phát triển.
Trịnh Thị Hồng Hạnh,
Viện Lịch sử Đảng. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh