Với cú huých mang tên ChatGPT, hàng loạt ông lớn công nghệ trên toàn cầu như Google, Microsoft, Meta, Amazon, Alibaba… đã chính thức gia nhập cuộc đua nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) vào các sản phẩm cốt lõi, đánh dấu bằng các khoản đầu tư khổng lồ và các kế hoạch đầy tham vọng.

Trước xu thế AI không thể đảo ngược hiện nay, yêu cầu đặt ra cho ngành công nghiệp trí tuệ nhân tạo Việt Nam là phải tăng tốc nắm bắt cơ hội từ làn sóng AI để tạo đột phá trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia, bứt phá về năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững.

Sự ra đời của ứng dụng chatbot AI - ChatGPT là một bằng chứng sinh động cho thấy AI đã đi vào cuộc sống và đạt được tính đại chúng chứ không còn “quanh quẩn” trong các phòng nghiên cứu nữa. AI bây giờ đang chuyển dần từ ngành khoa học sang ngành công nghệ ứng dụng và có những sản phẩm thị trường.

Trong thời đại 4.0, AI được xem là một trong những công nghệ đột phá, thúc đẩy chuyển đổi số một cách toàn diện, hiệu quả.

Ở Việt Nam, Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 xác định mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với một số chỉ tiêu cơ bản cụ thể.

Trong đó, phấn đấu đến năm 2025, kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI) và nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI)…

Đặt ra mục tiêu chuyển đổi thành một quốc gia số, Việt Nam chắc chắn không thể bỏ qua việc phát triển trí tuệ nhân tạo.

Theo một báo cáo do Trung tâm Không gian mạng Viettel (Viettel Cyberspace) thực hiện, 92% ứng dụng của chuyển đổi số có liên quan tới trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu. “Trí tuệ nhân tạo chính là cốt lõi để chuyển đổi số, hay nói cách khác muốn chuyển đổi số phải phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo” - ông Nguyễn Mạnh Quý, Giám đốc Viettel Cyberspace cho hay.

Ông Quý dẫn thí dụ khi xây dựng thành phố thông minh - chuyển đổi số, chúng ta cần lắp hệ thống gồm hàng trăm chiếc camera giao thông. Nếu không có trí tuệ nhân tạo, chúng ta sẽ cần bao nhiêu người ngồi nhìn hàng trăm cái camera đó? Trong khi trí tuệ nhân tạo hoàn toàn có thể tự xem và hiểu các hành vi vi phạm giao thông và đưa ra các cảnh báo.

Những năm qua, phong trào chuyển đổi số quốc gia đã và đang lan tỏa ngày càng sâu trong mọi “ngóc ngách” của đời sống xã hội Việt Nam. Đồng hành cùng quá trình đó, công nghệ AI trở thành một bộ phận thiết yếu và được ứng dụng mạnh mẽ, tích cực trong các lĩnh vực như đô thị thông minh, y tế, bảo hiểm, giao thông, nông nghiệp thông minh, công nghệ môi trường….

Về góc độ kinh tế, các chuyên gia cho rằng, việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI của Việt Nam trong tương lai sẽ góp phần giải quyết những vấn đề trong phát triển kinh tế-xã hội và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh.

Theo PGS,TS Nguyễn Xuân Hoài, Viện trưởng Viện Trí tuệ nhân tạo Việt Nam, trước đây AI chỉ gói gọn trong những cuộc bàn luận của những nhà nghiên cứu nhưng bây giờ tất cả mọi người, cả thế giới đều phải quan tâm đến nó. Gốc rễ của AI là phục vụ con người, có thể nói đây là một ngành khoa học nghiên cứu rất chuyên sâu về con người. Nên việc phát triển AI là một vấn đề rất cấp thiết.

“Câu chuyện AI không phải của thế giới mà còn là câu chuyện của Việt Nam nữa. Việt Nam không thể chậm chân về AI so với thế giới được. Vì đây là vấn đề toàn cầu, càng phát triển thế giới càng phải dựa vào AI nên Việt Nam không thể bỏ lỡ được”, PGS,TS Nguyễn Xuân Hoài nhận định.

Nắm bắt xu hướng phát triển của trí tuệ nhân tạo, một số doanh nghiệp lớn đã xây dựng và phát triển các trung tâm nghiên cứu và phát triển AI tại Việt Nam, thu hút nhiều chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này đến làm việc. Đồng thời, nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo áp dụng công nghệ AI trong các sản phẩm, dịch vụ mới. Những sản phẩm ứng dụng trí tuệ nhân tạo chính là điều kiện tiên quyết góp thúc đẩy nền công nghiệp trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ, là đòn bẩy để thúc đẩy chuyển đổi số tại Việt Nam.

Đánh giá về tiềm lực phát triển AI của Việt Nam, ông Phùng Việt Thắng, Giám đốc Kinh doanh, Khối khu vực công và doanh nghiệp lớn, Microsoft Việt Nam cho rằng, Việt Nam không đi sau thế giới về mặt nhận thức công nghệ.

Theo báo cáo “Chỉ số sẵn sàng AI của Chính phủ năm 2022” do Tổ chức Oxford Insights (Vương quốc Anh) công bố, Việt Nam xếp hạng 55/181 toàn cầu, tăng 7 bậc so với năm 2021, và xếp thứ 6/10 trong ASEAN.

Kết quả này không chỉ phản ánh sự phát triển của công nghệ trí tuệ nhân tạo, mà còn cho thấy xu hướng hình thành nền công nghiệp trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.

Trong xếp hạng năm 2021, lần đầu tiên điểm sẵn sàng cho AI của Việt Nam đạt 51,82/100, vượt qua mức trung bình toàn cầu là 47,72; nhảy vọt 14 bậc so với năm 2020. Mức độ sẵn sàng của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đối với công nghệ AI được đánh giá thông qua ba trụ cột - chính phủ, công nghệ và cơ sở hạ tầng dữ liệu.

Các chuyên gia nhận định, trên thực tế, Việt Nam đang có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển AI. Đầu năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030.

Chiến lược đề ra mục tiêu đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, đưa trí tuệ nhân tạo trở thành lĩnh vực công nghệ quan trọng của Việt Nam trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, góp phần phát triển kinh tế-xã hội.

Đây là tiền đề từng bước đưa Việt Nam trở thành điểm sáng về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI trong khu vực và trên thế giới. Đại diện của Microsoft đánh giá, với các yếu tố trên, 2023 được kỳ vọng sẽ là năm bùng nổ công nghệ AI tại Việt Nam.

Theo Giám đốc Viettel Cyberspace Nguyễn Mạnh Quý, để phát triển AI cần có 3 trụ lớn gồm: siêu máy tính, dữ liệu lớn, thuật toán. Thuật toán là yếu tố Việt Nam có nhiều lợi thế. Trong trí tuệ nhân tạo, thuật toán ứng dụng rất nhiều công thức toán học phức tạp. Hay nói cách khác, nói đến thuật toán là nói đến con người.

Việt Nam có một lực lượng mạnh về công nghệ thông tin và có nền tảng tốt về toán học. Bằng chứng là nhiều công ty phát triển AI của Nhật Bản hay Singapore đều đặt trụ sở tại Việt Nam để tận dụng nguồn nhân lực trong nước. “Cùng với yếu tố con người, nếu được đầu tư thêm vào hai trụ cột còn lại, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm trí tuệ nhân tạo của Đông Nam Á”, ông Quý nói.

Trong bài viết về phát triển AI của Việt Nam mới đây, Tạp chí Forbes cũng đã đề cập nhiều dấu hiệu cho thấy ngành công nghiệp AI ở Việt Nam đang phát triển và nở rộ. Tác giả bài báo trích dẫn báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy, doanh thu của ngành công nghệ thông tin và truyền thông năm 2021 là 136,153 triệu USD, tăng mạnh so với mức 124,678 triệu USD năm 2020.

Việt Nam hiện có trên 64 nghìn doanh nghiệp công nghệ số, tăng 5.600 doanh nghiệp so với năm 2020 và có gần 1.000 sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông mang thương hiệu Việt. Ước tính, Việt Nam có trên 1 triệu lao động công nghệ thông tin và hơn 80 nghìn sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng các chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông.

Chính phủ Việt Nam đã và đang đầu tư mạnh vào AI và các công nghệ kỹ thuật số khác, chẳng hạn như học máy, chuỗi khối, phân tích dữ liệu lớn, Internet vạn vật (IoT) và điện toán đám mây, cùng với đó là phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Sự thể hiện niềm tin này đang đặt nền tảng chiến lược vững chắc để Việt Nam trở thành quốc gia đổi mới mạnh mẽ về AI trong những năm tới.

Tác giả bài báo nhận định, với các chính sách lớn của Chính phủ nhằm hỗ trợ nghiên cứu và phát triển và triển khai ứng dụng AI, Việt Nam đã sẵn sàng thực hiện một số bước nhảy vọt mạnh mẽ về phía trước. AI ở Việt Nam đang “nở rộ” nhờ tầm nhìn chiến lược về đổi mới AI.

Tuy nhiên, bên cạnh những dấu hiệu tích cực, bài báo cũng nhận diện thách thức thực sự đối với phát triển AI của Việt Nam là sự thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cần thiết trong lĩnh vực này. Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), hiện có chưa đến 2.000 người Việt Nam đang học tập và làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến AI và chưa đến 300 người được coi là chuyên gia về AI.

Các chuyên gia đánh giá, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển đào tạo AI, song khoảng cách giữa phát triển AI ở Việt Nam và đào tạo AI vẫn còn khá lớn, việc đào tạo nhân tài trong lĩnh vực AI còn chưa bắt kịp. Đây là rào cản mà Việt Nam cần phải tháo gỡ để tránh bỏ lỡ “chuyến tàu AI” đang tăng tốc trên thế giới hiện nay.

Đầu tư vào công nghệ AI hiện được xem là xu thế tất yếu trong thời gian tới, và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Vấn đề ở đây là cách tiếp cận thế nào để Việt Nam có thể tận dụng tối đa cơ hội mà làn sóng AI toàn cầu mang lại.

Theo chuyên gia Nguyễn Mạnh Quý, các công ty trí tuệ nhân tạo trên thế giới được chia làm hai loại, gồm: các “ông lớn” như Big Tech chuyên về phát triển công nghệ AI và các công ty nhỏ tích hợp AI vào các ứng dụng cụ thể.

Loại thứ nhất thường sẽ cung cấp các nền tảng lớn hay các công nghệ lõi, trong khi loại thứ hai sẽ tích hợp AI vào các ứng dụng cụ thể như: y tế (các AI chuẩn đoán bệnh hoặc xem X-quang,…),  giao thông (các AI liên quan đến camera giao thông, nhận diện biển số xe, nhận diện người đi bộ, nhận diện tai nạn giao thông,…),  tài chính (các AI đánh giá điểm tín dụng giúp người dùng vay nhanh hơn,…).

Giám đốc Viettel Cyberspace cho rằng, AI là một lĩnh vực rất rộng và không ai có thể làm hết được, vì vậy Việt Nam nên “địa phương hóa” các AI có sẵn. Dẫn thí dụ về việc phát triển mô hình xe tự lái của Mỹ ở Việt Nam, ông Quý cho biết xe tự lái chạy ở Mỹ khác với Việt Nam, bởi ở Việt Nam có cả xe máy, xe đạp,… Hành vi lái xe ở Việt Nam cũng khác với Mỹ, nên để ứng dụng một chiếc xe tự lái của Mỹ tại Việt Nam, “địa phương hóa” là yêu cầu bắt buộc.

Đại diện Viettel khẳng định đây là cơ hội để Việt Nam hợp tác với các Big Tech nhằm “địa phương hóa” hoặc “cá thể hóa” các AI tầm cỡ dựa trên dữ liệu bản địa và hành vi người dùng của Việt Nam. Các phiên bản địa phương hóa này sẽ giúp người dùng có trải nghiệm chính xác hơn, tin cậy hơn.

Có chung quan điểm, Tổng Giám đốc BKAV Nguyễn Tử Quảng cho rằng Việt Nam cần “đứng trên vai người khổng lồ”, thay vì tự phát triển các công nghệ AI thì nên ứng dụng các thành tựu của thế giới để phát triển thêm. “Theo tôi, công thức để phát triển trí tuệ nhân tạo của Việt Nam chính là: Thuật toán thì thừa hưởng, dữ liệu thì nội địa”, ông Quảng nói.

Tuy nhiên, vị chuyên gia này lưu ý, để phát triển, một trí tuệ nhân tạo sẽ cần thu thập rất nhiều dữ liệu. Điều này khiến quyền riêng tư của con người dễ bị vi phạm, nhưng xã hội sẽ phải thay đổi để thích nghi.

Người đứng đầu BKAV nhấn mạnh sự cần thiết phải đặt ra các tiêu chuẩn và ranh giới để phân loại dữ liệu. Đâu là dữ liệu được phép sử dụng, đâu là dữ liệu phải bảo đảm tuyệt mật chứ không thể cấm hết. Bởi một khi không có dữ liệu, chúng ta không thể phát triển trí tuệ nhân tạo, và sẽ bị lạc hậu so với các nước được phép sử dụng dữ liệu.

Trong khi đó, ông Phùng Việt Thắng, Giám đốc Kinh doanh, Khối khu vực công và doanh nghiệp lớn, Microsoft Việt Nam lại cho rằng, Việt Nam nên cân bằng giữa việc tự phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo nội địa và “địa phương hoá” công nghệ trí tuệ nhân tạo quốc tế.

Việc phát triển trí tuệ nhân tạo nội địa có thể giúp Việt Nam tận dụng được tiềm năng của nguồn nhân lực, thị trường và văn hoá đặc thù. Tuy nhiên, việc này cũng đòi hỏi nhiều nguồn lực, thời gian và nỗ lực để đạt được kết quả cao.

Trong khi đó, việc “địa phương hóa” trí tuệ nhân tạo quốc tế có thể giúp Việt Nam học hỏi được những kinh nghiệm, công nghệ và tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng ngôn ngữ, văn hóa và chính sách có thể là thách thức.

“Vì vậy, tôi nghĩ Việt Nam nên kết hợp cả hai hướng để phát triển công nghệ và giải pháp trí tuệ nhân tạo một cách bền vững và hiệu quả”, ông Thắng cho hay.

Là thị trường khá nhanh nhạy với công nghệ mới, trong bối cảnh bùng nổ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), Việt Nam được kỳ vọng sẽ theo kịp làn sóng này để tạo ra những bước tiến đột phá hướng tới hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, phát triển các giải pháp và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khu vực ASEAN và trên thế giới vào năm 2030.

Về vấn đề ứng dụng AI tại Việt Nam, tại Hội nghị Giao ban quản lý nhà nước quý 1 của Bộ Thông tin và Truyền thông với đối tượng quản lý diễn ra ngày 7/4, Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã kết luận: “Năm 2023 là năm sử dụng AI để tạo ra trợ lý ảo cho các doanh nghiệp, các tổ chức”.

Bộ trưởng lấy thí dụ điển hình cần nhân rộng là công ty MISA, đơn vị đã thuê engine của ChatGPT để đưa dữ liệu vào và cho 2.000 người trong công ty sử dụng, giải quyết được bài toán trợ lý ảo. Cách này đơn giản nhưng giá trị mang lại rất lớn.

“Năm 2023 là năm dùng công nghệ cao, công nghệ mới để giải bài toán nhỏ nhưng tạo ra giá trị lớn”, Bộ trưởng khẳng định. Các công ty công nghệ lớn đang phát triển công nghệ số để giải các bài toán to, các yêu cầu phổ quát, tập trung cho các thị trường hàng tỷ người, giống như ChatGPT trả lời các thể loại câu hỏi cho tất cả mọi người. Còn theo Bộ trưởng, hướng đi của Việt Nam là dùng AI để tạo ra trợ lý ảo chuyên sâu cho từng lĩnh vực chuyên môn. “Khi mà dữ liệu thì chỉ bằng một phần triệu so với ChatGPT thì trợ lý ảo của chúng ta trở nên xuất sắc. Làm như vậy mới có thể cá thể hóa, phù hợp với trình độ hiện tại của chúng ta”, Bộ trưởng nói.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, đây là thị trường rất phong phú và không hề nhỏ, 1 triệu doanh nghiệp là có 1 triệu trợ lý ảo. Mỗi cơ quan báo chí cũng cần 1 trợ lý ảo để phóng viên đưa ra yêu cầu trong công việc.

  • Tổ chức sản xuất: Việt Anh - Hồng Vân
  • Thực hiện: Văn Toản
  • Hình ảnh: Thành Đạt
  • Trình bày: Thi Uyên
  • Phát triển trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm

    Trí tuệ nhân tạo là cốt lõi của chuyển đổi số

    Việt Nam cần rất nhiều điều kiện để phát triển trí tuệ nhân tạo