Ổn định kinh tế-xã hội,
vững vàng vượt thách thức

Một góc Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: VGP

Một góc Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: VGP

Nền kinh tế của Việt Nam đã được phục hồi mạnh mẽ ở hầu hết lĩnh vực, địa phương là yếu tố thuận lợi tạo nguồn lực cho điều hành chính sách năm 2023. Cơ hội còn nhiều, song thách thức cũng đang hiện hữu, đòi hỏi các vị tư lệnh ngành, những người đứng đầu chính quyền địa phương cần có quyết tâm cao, dám chịu trách nhiệm trong điều hành để khơi thông nguồn lực phát triển.

Đồng chí HỒ ĐỨC PHỚC, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Tài chính:
Tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát

Năm 2023 là năm có ý nghĩa quan trọng, quyết định cho việc thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2021-2025. Trong khi kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, áp lực lạm phát tăng khiến nhiều quốc gia phải từng bước thắt chặt chính sách tài khóa, tiền tệ sẽ ảnh hưởng lớn tới sức chống chịu và nguồn lực của nhà nước, doanh nghiệp cũng như người dân.

Căn cứ các quan điểm, trọng tâm chỉ đạo điều hành và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Bộ Tài chính xác định, để hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ tài chính-ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 2023:

  • Trước hết, phải điều hành chính sách tài khóa linh hoạt, thận trọng, bám sát diễn biến thực tiễn, phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, nhằm thực hiện mục tiêu vừa phục hồi vừa phát triển kinh tế-xã hội.
  • Hai là, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách tài chính-NSNN; đẩy mạnh cải cách hành chính; siết chặt kỷ luật kỷ cương tài chính; đẩy nhanh chuyển đổi số để góp phần xây dựng chính phủ số.
  • Ba là, phát triển bền vững, vận hành an toàn, thông suốt thị trường tài chính và dịch vụ tài chính, thực hiện quản lý giá theo nguyên tắc thị trường, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, ổn định các cân đối lớn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt là đẩy mạnh công tác nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; bảo đảm dự toán thu NSNN.
  • Bốn là, quản lý tốt nợ công, dự trữ quốc gia, phòng, chống buôn lậu hiệu quả.

Theo Bộ Tài chính, tính đến ngày 15/12/2022, thu ngân sách nhà nước đạt 1.691,8 nghìn tỷ đồng, vượt 19,8% dự toán, cao hơn 78 nghìn tỷ đồng so với đánh giá thực hiện cả năm đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ tư (tháng 10, 11/2022).

Đồng chí HỒ ĐỨC PHỚC, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Tài chính.

Đồng chí HỒ ĐỨC PHỚC, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Tài chính.

Sản xuất hàng xuất khẩu tại Công ty TNHH giày Ching Luh Việt Nam (Khu công nghiệp Thuận Đạo, Long An). Ảnh: ĐĂNG ANH

Sản xuất hàng xuất khẩu tại Công ty TNHH giày Ching Luh Việt Nam (Khu công nghiệp Thuận Đạo, Long An). Ảnh: ĐĂNG ANH

Đồng chí ĐÀO HỒNG LAN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Y tế.

Tiêm vaccine phòng Covid-19 mũi 3 cho người dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội tại điểm tiêm trường Trung học cơ sở Trưng Vương ngày 7/1/2022. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Đồng chí ĐÀO HỒNG LAN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Y tế.

Tiêm vaccine phòng Covid-19 mũi 3 cho người dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội tại điểm tiêm trường Trung học cơ sở Trưng Vương ngày 7/1/2022. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Đồng chí ĐÀO HỒNG LAN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Y tế:
Dũng cảm đối mặt thách thức, hoàn thiện hành lang pháp lý

Năm 2022 đã đặt ra những thách thức rất lớn mà ngành y tế phải dũng cảm đối mặt và tìm ra giải pháp đột phá để khắc phục, từ đó mới thực hiện được các nhiệm vụ được nêu ra trong Nghị quyết 20, 21 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII và Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

Phòng, chống dịch vẫn là một trong những nhiệm vụ cấp bách, được ưu tiên hàng đầu trong năm 2023 nhằm bảo vệ thành quả chống dịch Covid-19 cũng như không để dịch bệnh bùng phát trở lại, không để xảy ra tình trạng “dịch chồng dịch”.

Theo Báo cáo của Chính phủ đánh giá việc thực hiện quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội về các chính sách phòng, chống dịch bệnh Covid-19, trong khi tình hình dịch bệnh trên thế giới vẫn còn phức tạp ở một số quốc gia thì Việt Nam đã kiểm soát được dịch bệnh trên toàn quốc.
Tỷ lệ tử vong/ca mắc đã giảm mạnh từ 3,1% (tháng 8/2021) xuống 0,38% (tháng 10/2022), số ca mắc mới trong tháng 10/2022 giảm 64,8% so với tháng 9/2022.
Việt Nam là quốc gia có số liều vaccine phòng Covid-19 được sử dụng và tỷ lệ bao phủ vaccine cao trên thế giới, với 264 triệu liều vaccine được tiêm tính đến hết tháng 11/2022.

Bộ Y tế sẽ phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành liên quan xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý, các dự án luật cũng như tập trung nghiên cứu, đề xuất các cơ chế đặc thù, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thể chế trong xã hội hóa, cơ chế tự chủ đối với các cơ sở y tế công lập, quản trị đơn vị trong lĩnh vực y tế.

Tập trung giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế tại các cơ sở khám, chữa bệnh trên toàn quốc. Đồng thời đẩy nhanh hoàn thành quy hoạch mạng lưới y tế cơ sở theo hướng bố trí số lượng hợp lý trạm y tế theo quy mô dân số, không phụ thuộc vào địa giới hành chính các tỉnh, thành phố; hoàn thiện các gói dịch vụ y tế cơ bản tại y tế cơ sở do ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế chi trả...

Bộ tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi để đổi mới đào tạo theo hướng hội nhập quốc tế; đề xuất, áp dụng chính sách tiền lương, phụ cấp, chế độ đãi ngộ hợp lý để đội ngũ thầy thuốc yên tâm công tác và cống hiến. Toàn ngành sẽ kiện toàn sắp xếp cơ cấu tổ chức; triển khai chuyển một số bệnh viện tuyến trung ương về địa phương quản lý; sớm thực hiện việc cấp chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động cho cơ sở y tế tư nhân theo đúng quy định. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính cũng như chuyển đổi số trên phạm vi cả nước; đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, truyền thông để tranh thủ sự đồng thuận của toàn xã hội.

Đồng chí ĐÀO NGỌC DUNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội.

Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Đồng chí ĐÀO NGỌC DUNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội.

Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Đồng chí ĐÀO NGỌC DUNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Lao động-Thương binh và Xã hội:
Phát triển chính sách xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững

Năm 2022, thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2022, Ngành Lao động-Thương binh và Xã hội đã nỗ lực triển khai thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp, nhằm hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động khôi phục sản xuất, kinh doanh, duy trì công ăn, việc làm bảo đảm và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, chống đứt gãy chuỗi cung ứng lao động. Đặc biệt, tham mưu ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách chưa có tiền lệ nhằm hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Theo Báo cáo của Chính phủ đánh giá việc thực hiện quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội về các chính sách phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định để bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân: Đã cấp 141,97 nghìn tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho 33 tỉnh, thành phố; thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 cho trên 24,2 triệu đối tượng với tổng kinh phí trên 21.890 tỷ đồng; giảm đóng bảo hiểm thất nghiệp cho 346.664 đơn vị với 12.054.802 lao động, với số tiền được giảm đóng là hơn 9.210 tỷ đồng; các cấp công đoàn đã hỗ trợ tuyến đầu chống dịch và đoàn viên, người lao động từ nguồn tài chính công đoàn và nguồn xã hội hóa với số kinh phí bảo đảm trên 5.200 tỷ đồng; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã vận động được kinh phí, hiện vật tương đương 20.512 tỷ đồng; thực hiện phân bổ, hỗ trợ các tỉnh, thành phố khoảng 17.204 tỷ đồng…

Năm 2023, với phương châm “Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới, phát triển”, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế về lao động, người có công và xã hội bảo đảm hiệu quả, hiệu lực, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương quan tâm hỗ trợ người lao động bị giảm thu nhập, mất, thiếu việc làm do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh; hỗ trợ người lao động gặp khó khăn về quê đón Tết và quay trở lại nơi làm việc sau Tết Nguyên đán; đưa ra giải pháp duy trì chuỗi cung ứng nguồn nhân lực, đáp ứng kịp thời lao động cho doanh nghiệp.

Trao các “Túi an sinh” tặng thanh niên công nhân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn. Ảnh: NGỌC VY

Trao các “Túi an sinh” tặng thanh niên công nhân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn. Ảnh: NGỌC VY

Triển khai quyết liệt các giải pháp phát triển thị trường lao động đồng bộ linh hoạt, hiện đại với các yêu cầu liên thông đa tầng, đa ngành, đa lĩnh vực, đa vùng và hội nhập quốc tế, kết nối và điều tiết hiệu quả cung-cầu lao động. Đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp… góp phần nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của quốc gia. Tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành Đề án đổi mới chính sách xã hội đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng bao trùm, toàn diện và bền vững…

Thực hiện tốt các đề án, chính sách trợ giúp xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo đa chiều bền vững giai đoạn 2021-2025, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ, liên thông cơ sở dữ liệu giữa các đơn vị, kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, nhằm đáp ứng hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành thực hiện công tác lao động, người có công và xã hội.

Đồng chí NGUYỄN HỒNG DIÊN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Công thương:
Chủ động ứng đối trước những diễn biến thị trường

Đồng chí NGUYỄN HỒNG DIÊN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Công thương.

Đồng chí NGUYỄN HỒNG DIÊN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Công thương.

Để khắc phục những khó khăn, thách thức, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng trong năm 2023 và Kế hoạch giai đoạn 2021-2025, ngành Công thương sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Về sản xuất công nghiệp, Bộ Công thương sẽ đẩy mạnh việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm nguồn cung nguyên, vật liệu phục vụ sản xuất nhằm hạn chế các rủi ro về gián đoạn chuỗi cung ứng; tiếp tục triển khai các chương trình kết nối các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp lớn toàn cầu; đẩy mạnh triển khai các gói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất; bảo đảm sản xuất và nhập khẩu điện, xăng dầu đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho hoạt động sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân.

Về xuất, nhập khẩu, Bộ Công thương sẽ điều chỉnh, ứng phó thích hợp với những diễn biến thị trường. Bên cạnh đó, tập trung các giải pháp hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp, kết nối thị trường, xử lý các rào cản, vướng mắc trong tiếp cận thị trường xuất, nhập khẩu cũng như tiếp tục khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; đẩy nhanh số hóa trong giải quyết các thủ tục cấp chứng nhận C/O và các thủ tục khác có liên quan xuất, nhập khẩu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các gói hỗ trợ phục hồi hậu Covid-19 của Chính phủ. Tiếp tục phát huy có hiệu quả vai trò của hệ thống cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.

Về phát triển thị trường trong nước, Bộ Công thương sẽ tập trung phối hợp với các địa phương và doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối, dịch vụ logistics để khai thác tốt thị trường nội địa vẫn còn dư địa gia tăng trong bối cảnh thị trường nước ngoài đang có xu hướng bị thu hẹp.

Ngoài ra, Bộ cũng sẽ thực hiện một cách quyết liệt, nhịp nhàng công tác bảo đảm cung-cầu hàng hóa trong nước, ổn định giá cả các mặt hàng thiết yếu... Riêng đối với mặt hàng xăng dầu, không để gián đoạn nguồn cung xăng dầu trong hệ thống kinh doanh, bảo đảm an ninh năng lượng, không để xảy ra thiếu hụt nguồn cung trong mọi tình huống;… đồng thời, khẩn trương rà soát, tham mưu với Chính phủ chỉnh sửa, bổ sung Nghị định số 83/2014/NĐ-CP và Nghị định số 95/2021/NĐ-CP của Chính phủ.

Vận chuyển container xuất nhập khẩu tại cảng Đình Vũ, thành phố Hải Phòng. Ảnh: DUY LINH

Vận chuyển container xuất nhập khẩu tại cảng Đình Vũ, thành phố Hải Phòng. Ảnh: DUY LINH

Thời điểm ghi nhận các mốc kỷ lục của xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2022. Nguồn: Bộ Công thương

Thời điểm ghi nhận các mốc kỷ lục của xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2022. Nguồn: Bộ Công thương

Đồng chí LÊ MINH HOAN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
Tư duy về nông nghiệp không thể không thay đổi

Đồng chí LÊ MINH HOAN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Đồng chí LÊ MINH HOAN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Trong nhiều báo cáo đánh giá về ngành Nông nghiệp đều có chung nhận định, bên cạnh những thành tựu đạt được thì “tăng trưởng có xu hướng giảm dần”. Mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp cũng như cả ngành kinh tế theo chiều rộng đã tới ngưỡng. Tài nguyên đất đai đang bị thu hẹp dần, nếu không có cách tiếp cận khác, tăng trưởng nông nghiệp tiếp tục suy giảm.

Một khi chậm chuyển đổi mô hình tăng trưởng, vai trò “trụ đỡ” của nông nghiệp sẽ mất đi. Đó chính là sự cần thiết ra đời Nghị quyết số 19-NQ/TW đặt ba thành tố: “nông nghiệp, nông dân và nông thôn” như một chỉnh thể. Thế giới đã không ngừng thay đổi, càng ngày càng nhanh hơn. Từ nền kinh tế tri thức đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Từ công nghệ thông tin đến cách mạng số. Từ nền kinh tế xanh đến chuyển đổi xanh trước biến đổi khí hậu… Dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi ngày càng bất thường. Thiên tai ngày một thất thường, diễn ra trên diện rộng. Một thế giới được gọi là VUCA: biến động, bất định, phức tạp, mơ hồ. Trong bối cảnh như vậy, tư duy về nông nghiệp không thể không thay đổi.

Tư duy sản xuất nông nghiệp phải chuyển dần sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Tư duy sản xuất lấy sản lượng làm mục tiêu, tư duy kinh tế lấy chất lượng và giá trị gia tăng chuỗi ngành hàng làm đích đến. Tư duy sản xuất tạo ra sản lượng lớn phù hợp thị trường lớn, tuy nhiên, đôi khi sản lượng hàng hóa vượt mức cầu sẽ dẫn đến tình trạng bị ách tắc, giá cả giảm. Vấn đề là hướng đến giá trị gia tăng và thu nhập của người nông dân. Đó mới chính là xem “Nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế”. Tư duy kinh tế là tư duy thị trường, nghĩa là sản phẩm đó phải trở thành thương phẩm, đáp ứng những đặc điểm, yêu cầu của thị trường, xuất phát từ xu thế thị trường.

Tư duy tích hợp đa giá trị thay cho tư duy đơn giá trị. Nông sản, ngoài giá trị là thực phẩm còn là dược phẩm, mỹ phẩm. Đã xuất hiện xu thế tiêu dùng thực phẩm hướng đến các yếu tố: sức khỏe, hạnh phúc, hòa hợp. Người tiêu dùng ngày nay chú ý nhiều hơn về bảo đảm dinh dưỡng, xem ăn uống là một nhu cầu trải nghiệm. Nông sản phải được tích hợp nhiều giá trị, từ câu chuyện cảm xúc về nguồn gốc, gắn với các yếu tố văn hóa bản địa, cộng đồng địa phương, truyền thống lịch sử...

Tư duy phát triển bao trùm thay vì chỉ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng đơn thuần. Cần tiếp cận mục tiêu tạo ra việc làm bên cạnh mục tiêu tăng trưởng. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ sẽ làm giảm số lao động nông nghiệp. Nếu không giải được bài toán lao động ở nông thôn sẽ không thể đạt được mục tiêu “ly nông bất ly hương”. Kinh tế nông thôn phát triển dựa vào chuỗi ngành hàng sẽ vừa tạo ra giá trị cao hơn, vừa tạo ra nhiều việc làm hơn.

Tư duy lấy con người làm trung tâm. Nghị quyết đã nêu “Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới”. Giải pháp quan trọng và đầu tiên Nghị quyết đã xác định là “Nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn”. Để người nông dân hội đủ năng lực làm chủ cần hình thành đội ngũ nông dân tri thức, chuyên nghiệp là tất yếu và cấp bách.

Tư duy nông thôn mới là một không gian sống hài hòa. Hài hòa là mục tiêu cuối cùng khi kiến tạo nông thôn mới. Nông thôn mới là không gian kinh tế, không gian văn hóa, không gian xã hội nông thôn. Tất cả hướng đến sự cộng sinh, hài hòa. Khi có tinh thần hợp tác, lời nguyền “manh mún, nhỏ lẻ, tự phát” sẽ được vượt qua.

Trang trại dâu tây công nghệ cao tại Lâm Đồng thuộc Công ty TNHH Sinh học sạch Biofresh. Ảnh: MAI VĂN BẢO

Trang trại dâu tây công nghệ cao tại Lâm Đồng thuộc Công ty TNHH Sinh học sạch Biofresh. Ảnh: MAI VĂN BẢO

Các sản phẩm OCOP Bắc Kạn được bày bán tại Điểm trưng bày, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm nông sản tỉnh Bắc Kạn. Ảnh: sonnptnt.backan.gov.vn

Các sản phẩm OCOP Bắc Kạn được bày bán tại Điểm trưng bày, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm nông sản tỉnh Bắc Kạn. Ảnh: sonnptnt.backan.gov.vn

PGS, TS HUỲNH THÀNH ĐẠT, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ:
Khoa học, công nghệ đổi mới, sáng tạo, nâng cao tiềm lực quốc gia

Thực tiễn của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) thời gian qua cho thấy, những tiến bộ về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) đã có tác động trực tiếp và tích cực, nâng cao tiềm lực kinh tế đất nước. Theo đánh giá của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), giai đoạn 2010-2019, Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) dương và thuộc nhóm các nước tăng chỉ số hiệu quả sản xuất cao nhất, với tốc độ tăng TFP bình quân 1,4%/năm giai đoạn 2010-2019 (cao hơn so mức tăng trung bình khoảng 1%/năm của các quốc gia thành viên). Năm 2021, TFP đóng góp khoảng 37% vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

PGS, TS HUỲNH THÀNH ĐẠT, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ.

PGS, TS HUỲNH THÀNH ĐẠT, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ.

Ngoài TFP, một chỉ số tổng hợp khác cũng phản ánh được đóng góp của KHCN&ĐMST của Việt Nam trong thời gian qua là Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam (GII). Trong 10 năm gần đây, Chỉ số GII của Việt Nam có xu hướng tăng rõ nét. Năm 2021 trong nhóm 34 quốc gia có thu nhập trung bình thấp được đưa vào danh sách xếp hạng GII, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí đứng đầu, đứng thứ tư trong ASEAN. Bên cạnh đó, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam bước đầu hình thành và phát triển nhanh, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đứng thứ ba trong Đông Nam Á.

Xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của các nước thuộc khối ASEAN giai đoạn 2014-2021. Nguồn dữ liệu: Global Innovation Index 2014-2021

Xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của các nước thuộc khối ASEAN giai đoạn 2014-2021. Nguồn dữ liệu: Global Innovation Index 2014-2021

Tuy vậy, năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn thấp, tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam là dưới 0,5% doanh thu (Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%). Tỷ lệ đổi mới máy móc, thiết bị hằng năm chỉ đạt khoảng 10% (các nước trong khu vực là 15-20%). Năm 2019, tổng chi cho KH&CN của Việt Nam còn thấp, mới đạt khoảng 0,53% GDP, trong khi đó Hàn Quốc đạt 4,63%, Nhật Bản đạt 3,21%, Trung Quốc đạt 2,23%. Sở hữu trí tuệ chưa được coi là công cụ hiệu quả của hoạt động KHCN&ĐMST. Thị trường KH&CN chưa liên thông chặt chẽ với thị trường hàng hóa/dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn... Cơ chế, chính sách hiện hành chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các sản phẩm KH&CN được trao đổi, mua bán trên thị trường.

Bộ Khoa học và Công nghệ đồng tình cao với các quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022, Hội nghị Trung ương 6 Khóa XIII với quan điểm KHCN&ĐMST là “nền tảng của CNH-HĐH”; tán thành với giải pháp phát triển KHCN&ĐMST trong thời gian tới cần tập trung để nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, dành ưu tiên phát triển các ngành, các lĩnh vực có công nghệ và giá trị gia tăng cao; đồng tình với quan điểm ưu tiên đầu tư cho KHCN&ĐMST đi trước một bước; nhất trí với yêu cầu tăng tỷ lệ chi từ ngân sách Nhà nước (NSNN) tính trên GDP cho KHCN&ĐMST với mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm ba quốc gia đứng đầu trong khu vực về tỷ lệ chi NSNN cho lĩnh vực này.

Từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần hình thành cho được hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia gắn với các chuỗi giá trị nội địa và toàn cầu. Cần xây dựng và phát triển các nền tảng đổi mới sáng tạo mở, mạng lưới đổi mới sáng tạo mở; phát huy mạnh mẽ vai trò của KHCN&ĐMST trong doanh nghiệp, thật sự lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong việc nghiên cứu phát triển và ứng dụng KHCN&ĐMST;...

Có thể nói, bối cảnh trong nước và quốc tế cho thực hiện CNH-HĐH trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã khác so với những giai đoạn trước. KHCN&ĐMST và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình chuyển đổi số đang diễn biến rất nhanh, có tính đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, làm thay đổi căn bản tư duy về CNH-HĐH. Các giải pháp về KHCN&ĐMST được nêu trong Nghị quyết số 29-NQ/TW thật sự là các giải pháp căn cốt, toàn diện.

Đồng chí NGUYỄN VĂN QUẢNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng:
Tạo đột phá để hình thành trung tâm tài chính quốc tế cấp vùng

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 3/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 thể hiện tư duy và tầm nhìn của Bộ Chính trị trong chiến lược phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ. Đặc biệt, Nghị quyết nêu ra một nhiệm vụ quan trọng: Xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm tài chính quốc tế cấp vùng.

Thực hiện chủ trương nêu trên, thành phố đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành, các chuyên gia trong và ngoài nước hoàn thành Đề án xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm tài chính quốc tế quy mô khu vực và đang trình Chính phủ xem xét. Theo đó, thành phố đã lựa chọn mô hình trung tâm tài chính với ba chức năng, gồm: Cung cấp dịch vụ tài chính hay còn gọi là trung tâm tài chính hải ngoại (offshore); trung tâm công nghệ tài chính (fintech); hoạt động phụ trợ cho hoạt động tài chính và dịch vụ tiện ích, với các nhóm ngành hoạt động: Dịch vụ tài chính truyền thông, công nghệ tài chính fintech và nhóm các dịch vụ tiện ích (kiểm toán, kế toán, dịch vụ pháp lý…).

Việc cho phép phát triển mô hình trung tâm tài chính ở Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng là một vấn đề rất mới và mang tầm quốc gia; đặt ra thách thức lớn về hoàn thiện thể chế, khung pháp lý để bảo đảm an toàn và quản lý rủi ro trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Do đó, Đà Nẵng cần được Trung ương tạo đột phá mạnh mẽ về cơ chế, chính sách; hình thành khung pháp lý đồng bộ, có tính hấp dẫn cao, phù hợp với thông lệ quốc tế; có lộ trình triển khai phù hợp…

Đồng thời, thành phố cũng xác định một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian đến là: Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện Đề án; nghiên cứu và tiếp thu kinh nghiệm thực tiễn các trung tâm tài chính trên thế giới; đánh giá khả năng thu hút đầu tư khi xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Đà Nẵng; tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội hiện đại theo mô hình đô thị thông minh, đột phá là hạ tầng giao thông kết nối trong nước, quốc tế với Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng, Cảng biển Tiên Sa, xây dựng Cảng biển Liên Chiểu và hạ tầng chuyển đổi số; nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách, khuyến khích hoạt động đầu tư, nhất là đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho Đà Nẵng trở thành trung tâm tài chính, trung tâm đổi mới khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm tổ chức sự kiện quốc tế; đồng thời, hình thành các hoạt động dịch vụ chất lượng cao về y tế, văn hóa, giáo dục, các trung tâm hội nghị, khu phi thuế quan, khu nghỉ dưỡng giải trí đẳng cấp góp phần hình thành hệ sinh thái, các không gian sống và làm việc thỏa mãn các nhà đầu tư tài chính quốc tế và khu vực.

Đồng chí NGUYỄN VĂN QUẢNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Đồng chí NGUYỄN VĂN QUẢNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Đà Nẵng về đêm. Ảnh: danang.gov.vn

Đà Nẵng về đêm. Ảnh: danang.gov.vn

Đồng chí ĐỖ ĐỨC DUY, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái:
Kiên định mục tiêu “xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”

Đồng chí ĐỖ ĐỨC DUY, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái.

Đồng chí ĐỖ ĐỨC DUY, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái.

Dấu ấn năm 2022 chính là tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Yên Bái ước đạt 8,05%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực, đạt mức tăng trưởng cao so với dự báo đầu năm và so với các địa phương trong vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng 5,67%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng 13,83%; khu vực dịch vụ tăng trưởng 5,39%. Các ngành, các lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế đều phục hồi và có bước phát triển mạnh…

Tình hình phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Yên Bái 11 tháng năm 2022. Nguồn: yenbai.gov.vn

Tình hình phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Yên Bái 11 tháng năm 2022. Nguồn: yenbai.gov.vn

Năm 2023 được tỉnh Yên Bái xác định là năm bứt phá, tăng tốc triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ 19 của Đảng bộ tỉnh. Theo đó, Tỉnh ủy Yên Bái đã ban hành Chương trình hành động số 135-CTr/TU ngày 18/11/2022 về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2023, trong đó, xác định chủ đề năm là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; quyết liệt triển khai hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; tập trung phát triển hạ tầng, đẩy mạnh thu hút đầu tư, bứt phá trong chuyển đổi số; duy trì phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân” với phương châm hành động “Quyết liệt, kỷ cương, tăng tốc, hiệu quả”.

Đồng bào dân tộc Dao ở Văn Yên, Yên Bái thu hoạch quế. Ảnh: THANH SƠN

Đồng bào dân tộc Dao ở Văn Yên, Yên Bái thu hoạch quế. Ảnh: THANH SƠN

Với mục tiêu bao trùm, xuyên suốt là hoàn thành thắng lợi toàn diện các chỉ tiêu, nhiệm vụ chính trị của năm 2023, Yên Bái đã và đang nỗ lực, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị năm 2023 đã đề ra, góp phần từng bước hiện thực hóa mục tiêu đưa Yên Bái phát triển nhanh, bền vững theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”, trở thành tỉnh khá vào năm 2025 và nằm trong nhóm các tỉnh phát triển hàng đầu của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ vào năm 2030.

Đồng chí LÊ QUANG MẠNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ:
Đánh dấu chặng đường 20 năm thành phố trực thuộc Trung ương

Đi qua một năm 2022 đầy khó khăn, nhờ những nỗ lực mạnh mẽ, thành phố Cần Thơ đạt mức tăng trưởng ấn tượng với GRDP ước đạt 9,88% (mục tiêu đề ra là 7,5%). GRDP bình quân đầu người đạt 83,99 triệu đồng (vượt 8,37% chỉ tiêu Nghị quyết), tăng 14,48% so năm 2021. Bước sang năm 2023, năm đánh dấu chặng đường 20 năm thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương, cũng là năm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ 14, nhiệm kỳ 2020-2025, Thành ủy Cần Thơ xác định chủ đề năm là: “Tăng cường xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tập trung các nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội thành phố”.

Thu hoạch vú sữa ở hợp tác xã Trường Khương A, xã trường Long, huyện Phong Điền, Cần Thơ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Mỹ. Ảnh: THANH TÂM

Thu hoạch vú sữa ở hợp tác xã Trường Khương A, xã trường Long, huyện Phong Điền, Cần Thơ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Mỹ. Ảnh: THANH TÂM

Cần Thơ tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả các kết luận, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành T.Ư, Chính phủ, Quốc hội như: Kết luận số 42-KL/TW ngày 20/10/2022 của Ban Chấp hành T.Ư về kinh tế-xã hội năm 2022-2023; nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách năm 2023; Nghị quyết số 45/2022/QH15 ngày 11/1/2022 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020-2025...

Tiếp tục thực hiện hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn thành phố. Thực hiện nghiêm túc các văn bản của Đảng, Nhà nước liên quan công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Tăng cường chất lượng, hiệu quả việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh và sức chống chịu của nền kinh tế. Phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ, hiện đại; nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng chống biến đổi khí hậu, hạ tầng số. Chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục, Chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021-2030”, phổ biến giáo dục pháp luật trong trường học...

Đồng chí LÊ QUANG MẠNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ.

Đồng chí LÊ QUANG MẠNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ.

Cần Thơ có vai trò quan trọng tại trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong liên kết phát triển khu vực. Ảnh: ĐÌNH TUYỂN

Cần Thơ có vai trò quan trọng tại trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong liên kết phát triển khu vực. Ảnh: ĐÌNH TUYỂN

Đồng chí LÊ QUỐC PHONG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp:
Đầu tư mọi nguồn lực để tiếp tục đà tăng GRDP ấn tượng

Đồng chí LÊ QUỐC PHONG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp.

Đồng chí LÊ QUỐC PHONG, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp.

Năm 2022 là năm đầu tiên tỉnh Đồng Tháp có được tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) cao nhất, đạt 9,11%. Có được kết quả này là do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng, nổi bật là triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện sáu nghị quyết, 10 kết luận chuyên đề cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 11, nhiệm kỳ 2020-2025, góp phần tạo ra xung lực mới, khí thế mới và thành công mới.

Tốc độ tăng trưởng GRDP của Đồng Tháp năm 2022 đạt 9,11%, được cho là kết quả khởi sắc nhất trong những năm gần đây. Ảnh: dongthap.gov.vn

Tốc độ tăng trưởng GRDP của Đồng Tháp năm 2022 đạt 9,11%, được cho là kết quả khởi sắc nhất trong những năm gần đây. Ảnh: dongthap.gov.vn

Xác định con người là nguồn lực quan trọng trong việc hiện thực hóa khát vọng nâng tầm vị thế của Đồng Tháp, tỉnh đã triển khai xây dựng Đề án Giáo dục tỉnh Đồng Tháp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; kêu gọi xây dựng đường sách đầu tiên ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, tạo môi trường học tập thuận lợi cho cộng đồng. Cũng vì mục tiêu này, tỉnh đã khai trương Trung tâm Chuyển đổi số, thành lập Trung tâm Điều hành đô thị thông minh tại một số địa phương, triển khai xây dựng và vận hành một số phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, giáo dục và y tế, tiến tới công khai, minh bạch, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp.

Bước sang năm mới, Đồng Tháp sẽ tập trung đẩy nhanh hơn nữa việc đầu tư phát triển hệ thống giao thông kết nối. Nỗ lực xây dựng thành phố Cao Lãnh, thành phố Sa Đéc hướng đến tiêu chí đô thị loại I, thành phố Hồng Ngự hướng đến tiêu chí đô thị loại II và phát triển các đô thị vệ tinh, các dự án đô thị mới nhằm nâng dần tỷ lệ đô thị hóa. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển; chú trọng đầu tư, phát triển giáo dục hướng đến trở thành địa phương học tập. Từng bước xây dựng chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên ba lĩnh vực trọng yếu là nông nghiệp, y tế, giáo dục.

Lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp thăm ruộng lúa của nông dân Trịnh Văn Hiển, xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười. Ảnh: VIỆT TIẾN

Lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp thăm ruộng lúa của nông dân Trịnh Văn Hiển, xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười. Ảnh: VIỆT TIẾN

Đối với mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp, sẽ tập trung tạo dựng chuỗi giá trị các ngành hàng chủ lực; xây dựng, nâng cấp hạ tầng nông nghiệp; thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; chương trình OCOP và du lịch nông thôn. Cả hệ thống chính trị tỉnh Đồng Tháp đang được vận hành vì mục tiêu xuyên suốt, nâng cao đời sống của người dân và nâng cao chất-lượng tăng trưởng theo hướng bền vững.

Đồng chí NGUYỄN THANH NGỌC, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh.

Nông dân Tây Ninh vào vụ hoa Tết. Ảnh: HUỲNH THANH LIÊM

Đồng chí NGUYỄN THANH NGỌC, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh.

Nông dân Tây Ninh vào vụ hoa Tết. Ảnh: HUỲNH THANH LIÊM

Đồng chí NGUYỄN THANH NGỌC, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh:
Xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác

Năm 2022, mặc dù phải đối mặt nhiều khó khăn, Tây Ninh vẫn tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực trong phát triển kinh tế-xã hội với 19/19 chỉ tiêu cơ bản đạt và vượt kế hoạch. Theo đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP ước tăng 9,56% (kế hoạch đề ra tăng 6,5%), cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước; GRDP bình quân đầu người ước đạt 3.700 USD, vượt kế hoạch đề ra; kim ngạch xuất khẩu, thu ngân sách, thu hút đầu tư đều tăng 25,9%, 17% và 36,1% so cùng kỳ. Tây Ninh tiếp tục nằm trong nhóm năm tỉnh, thành phố có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước; duy trì tốt công tác đối ngoại, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia...

Năm 2022 là năm đầu tiên sau nhiều năm, 100% các chỉ tiêu kinh tế-xã hội của Tây Ninh đều vượt so với Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh đề ra, 19/19 chỉ tiêu vượt (gồm 9 chỉ tiêu kinh tế, 7 chỉ tiêu văn hoá-xã hội và 3 chỉ tiêu môi trường). Theo UBND tỉnh, đó là kết quả của nỗ lực kiểm soát dịch Covid-19, các cấp, ngành trên địa bàn tỉnh tập trung triển khai các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội, giúp hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi mạnh mẽ.

Năm 2023, hệ thống chính trị Tây Ninh tập trung triển khai Nghị quyết của Chính phủ, Nghị quyết của Tỉnh ủy, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế-xã hội ngay từ đầu năm, với quyết tâm cao nhất. Chủ động phối hợp các tỉnh, thành phố trong vùng để triển khai thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế-xã hội theo quy hoạch; thực hiện có hiệu quả bốn đột phá chiến lược về phát triển hạ tầng giao thông, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch, cải cách hành chính và chuyển đổi số; tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hợp tác, hợp tác xã khôi phục, phát triển sản xuất.

Xác định hạ tầng giao thông là cực kỳ quan trọng, Tây Ninh tập trung giải quyết, tháo gỡ khó khăn, thực hiện tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm của tỉnh. Tỉnh hỗ trợ các nhà đầu tư triển khai các dự án đã có chủ trương đầu tư, nhất là các dự án phát triển công nghiệp, đô thị, du lịch, cảng logistics... Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, Tây Ninh sẽ chủ động, linh hoạt xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Đồng chí LÊ NGỌC TUẤN, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum:
Phấn đấu trở thành vùng dược liệu trọng điểm quốc gia

Đồng chí LÊ NGỌC TUẤN, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum.

Đồng chí LÊ NGỌC TUẤN, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum.

Kon Tum là tỉnh ở cực bắc Tây Nguyên, trong khu vực trung tâm “Tam giác phát triển” Việt Nam-Lào-Campuchia, nơi nổi tiếng với địa danh ngã ba biên giới “một con gà gáy, ba nước cùng nghe”. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã giúp cho Kon Tum nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói chung có được “kim chỉ nam” trên chặng đường phát triển tiếp theo.

Với tinh thần quyết liệt, trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, sự tin tưởng, đồng lòng, quyết tâm của cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, kinh tế-xã hội của tỉnh Kon Tum năm 2022 đạt được nhiều kết quả quan trọng so với cùng kỳ năm trước:
- Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP ước tăng 9,50%.
- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước khoảng 4.000 tỷ đồng, tăng 9,32% so với năm trước.
- Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 10.140 tỷ đồng, tăng 31,42% so với năm trước.
- Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành ước tính năm 2022 đạt 23.174,255 tỷ đồng, tăng 15,64% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 22,78%.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước đạt 30.989,27 tỷ đồng, tăng 19,11% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2022 tăng 2,99% so với năm trước.
Nguồn: Cục Thống kê Kon Tum

Năm 2023, Kon Tum sẽ tiếp tục chú trọng phát triển một số lĩnh vực thế mạnh của tỉnh như: kinh tế nông-lâm nghiệp, sản xuất hàng hóa với giá trị gia tăng cao như cà-phê, cao-su, mắc-ca, rau, hoa xứ lạnh; các loại cây dược liệu quý như: sâm Ngọc Linh, hồng đẳng sâm, đương quy và các loại dược liệu quý hiếm khác; năng lượng tái tạo; phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng...

Được thiên nhiên ưu đãi, ban cho cây sâm Ngọc Linh - “quốc bảo” của Việt Nam, Kon Tum sẽ tiếp tục mở rộng diện tích trồng và tăng cường chế biến sâu, đa dạng các sản phẩm, hàng hóa từ sâm Ngọc Linh. Bên cạnh đó, để khai thác tiềm năng, thế mạnh về dược liệu, Tỉnh ủy Kon Tum đã ban hành Nghị quyết về phát triển dược liệu với mục tiêu đến năm 2030, hình thành được vùng trồng dược liệu tập trung với diện tích sâm Ngọc Linh khoảng 10 nghìn ha, các cây dược liệu khác khoảng 15 nghìn ha, sản lượng các loại dược liệu đạt hơn 130 nghìn tấn.

Trồng sâm Ngọc Linh trong rừng già tại xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum. Ảnh: SONG NGÂN

Trồng sâm Ngọc Linh trong rừng già tại xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum. Ảnh: SONG NGÂN

Kon Tum sẽ tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để thu hút các doanh nghiệp, nhà đầu tư có tiềm lực, uy tín và kinh nghiệm trong phát triển vùng nguyên liệu đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, dược liệu… Thu hút nguồn lực sẽ góp phần thúc đẩy ngành kinh tế mũi nhọn phát triển, nhằm cụ thể hóa chiến lược: Đến năm 2045, tỉnh Kon Tum trở thành Trung tâm dược liệu lớn của cả nước với 16 nghìn ha sâm Ngọc Linh, 20 nghìn ha cây dược liệu khác.

Đồng chí NGUYỄN HƯƠNG GIANG, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh:
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng

Trên con đường tăng tốc phát triển hướng tới mục tiêu thành phố trực thuộc Trung ương, Bắc Ninh đang đối diện những thách thức như: tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng của tỉnh chưa thật sự hiệu quả; công nghiệp hỗ trợ phát triển chưa xứng với tiềm năng; một số yếu tố lợi thế so sánh đang giảm dần vai trò; các vấn đề về ô nhiễm môi trường, chi phí mặt bằng, đầu tư kinh doanh gia tăng; nguồn thu ngân sách từ đấu giá quyền sử dụng đất, thuế môi trường, giải phóng mặt bằng khó khăn...

Bước sang năm 2023, Bắc Ninh xác định cần cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện chỉ tiêu tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP); phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; đẩy nhanh việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp gắn với nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, an toàn và giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích.

Theo UBND tỉnh, kế hoạch năm 2023, tỉnh Bắc Ninh phấn đấu tổng sản phẩm (GRDP) tăng 6,5-7% so với năm 2022; thu nhập bình quân đầu người đạt 69,5 triệu đồng; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên 93 tỷ USD, tăng 1,7% so với ước cả năm 2022; tổng thu ngân sách nhà nước đạt 31.630 tỷ đồng, tăng 3% so với ước cả năm 2022...

Để phát triển mạnh công nghiệp theo chiều sâu, công nghiệp công nghệ cao, tỉnh sẽ đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp. Đi đôi với đó là tập trung nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch; tổ chức thực hiện Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; quy hoạch xây dựng vùng tỉnh, quy hoạch chung đô thị Bắc Ninh đến năm 2045…

Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, ngay từ đầu năm, tập trung khắc phục các hạn chế để đẩy nhanh tiến độ giải ngân, phấn đấu hoàn thành giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023. Bắc Ninh tăng cường công tác quản lý đất đai, tài nguyên, xây dựng quy chế đấu giá, sớm khắc phục khó khăn trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; tiếp tục thực hiện hiệu quả và đúng lộ trình Đề án tổng thể Bảo vệ môi trường; đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành đưa vào khai thác, phát huy hiệu quả các nhà máy xử lý rác thải, nhất là các nhà máy đốt rác phát điện công nghệ cao. Tỉnh kiên quyết xử lý nghiêm ô nhiễm môi trường trong cụm công nghiệp, làng nghề và các điểm nóng về ô nhiễm môi trường.

Đồng chí NGUYỄN HƯƠNG GIANG, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh.

Đồng chí NGUYỄN HƯƠNG GIANG, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh.

Năm 2023, tỉnh Bắc Ninh đặt mục tiêu tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 93,262 tỷ USD, tăng 1,7% so với năm 2022. Ảnh: BÁO BẮC NINH

Năm 2023, tỉnh Bắc Ninh đặt mục tiêu tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 93,262 tỷ USD, tăng 1,7% so với năm 2022. Ảnh: BÁO BẮC NINH

Đồng chí NGUYỄN VĂN TÙNG, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng:
Đi đầu trong nâng cao năng lực cạnh tranh từ ba trụ cột chính

Đặt mục tiêu trở thành thành phố đi đầu của cả nước trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong năm 2023, Hải Phòng xác định tập trung tăng tốc đổi mới, cơ cấu lại, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thành phố theo định hướng phát triển ba trụ cột chủ yếu: Công nghiệp công nghệ cao, cảng biển-logistics, du lịch-thương mại; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GRDP tăng 12,7%-13% so với năm 2022, trong đó nhóm công nghiệp, xây dựng tăng 15,9%-16,2%; nhóm dịch vụ tăng 9,1%-9,5%. Đây là cơ sở đưa GRDP bình quân đầu người đạt 8.150 USD.

Trong đó, phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, thông minh, bền vững, trụ cột chính của tăng trưởng kinh tế thành phố với trọng tâm là phát triển công nghiệp chế biến chế tạo, công nghiệp điện tử, công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ. Phấn đấu chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng khoảng 13,5% - 14,5%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GRDP đạt 46%; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 54,26%...

Hải Phòng đặt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thành phố theo định hướng phát triển ba trụ cột chủ yếu: Công nghiệp công nghệ cao, cảng biển-logistics, du lịch-thương mại. Ảnh: haiphong.gov.vn

Hải Phòng đặt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thành phố theo định hướng phát triển ba trụ cột chủ yếu: Công nghiệp công nghệ cao, cảng biển-logistics, du lịch-thương mại. Ảnh: haiphong.gov.vn

Hải Phòng sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phát triển  các khu công nghiệp mới: Nam Tràng Cát, Thủy Nguyên, Tràng Duệ 3, Giang Biên 2, Vinh Quang, An Hòa, Tân Trào, Quang Phục, Dũng Tiến, An Thọ…; hoàn thành công trình đê lấn biển Nam Đình Vũ; thu hút đầu tư các dự án công nghiệp điện gió ngoài khơi, điện rác; tập trung nguồn lực hoàn thành các công trình trọng điểm như: cầu Bến Rừng, cầu Nguyễn Trãi, chỉnh trang sông Tam Bạc, đường vành đai 2, khu trung tâm hành chính-chính trị và hạ tầng khu đô thị mới Bắc sông Cấm…

Cùng với đó, thành phố đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, phấn đấu thu hút 190 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư phát triển; đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư xây dựng các bến container tiếp theo của Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng và xây dựng khu dịch vụ logistics cấp quốc gia tại khu vực này, phấn đấu đạt sản lượng 185 triệu tấn hàng hóa qua cảng trong năm 2023; phát triển mạnh hạ tầng du lịch, nhất là các dự án du lịch, khu nghỉ dưỡng cao cấp, tầm cỡ quốc tế tại Đồ Sơn, Cát Bà như: Đồi Rồng, Cát Bà Amanita, Cát Đồn, Vịnh trung tâm Cát Bà…, phấn đấu thu hút 7,3 triệu lượt khách du lịch trong năm tới…

Đồng chí NGUYỄN VĂN TÙNG, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng.

Đồng chí NGUYỄN VĂN TÙNG, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng.

Ngày xuất bản: 10/1/2023
Nội dung: Báo Nhân Dân
Trình bày: Trung Hưng
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN, VGP