Ngành y tế trước những thách thức từ đại dịch Covid-19

Việt Nam đã đi đúng hướng trong thích ứng linh hoạt, an toàn với đại dịch Covid-19 kể từ cuối tháng 10/2021. Nâng cao khả năng ứng phó với dịch bệnh của hệ thống y tế năm 2022 là điều quan trọng trong giai đoạn này, để ngành y tế có nền tảng, đáp ứng tốt hơn trước bất kỳ đại dịch nào xuất hiện tới đây.

Vaccine vẫn là “vũ khí đầu tay”


Trải qua hơn 2 năm ứng phó với đại dịch, vũ khí hiệu quả nhất để cả thế giới và Việt Nam đương đầu với sự xuất hiện liên tục của biến chủng mới virrus SARS-CoV-2 chính là vaccine. 10 tháng qua, Việt Nam đã có những bước đi đúng đắn để có được nguồn vaccine bao phủ tiêm chủng cho người dân Việt Nam.

Tốc độ tiêm chủng của Việt Nam tăng nhanh chưa từng có từ nửa cuối năm 2021. Đến ngày 30/1/2022, Việt Nam đã đạt tỷ lệ bao phủ 100% vaccine cho người từ 18 tuổi trở lên và đang xây dựng kế hoạch tiêm cho trẻ em từ 5 -11 tuổi. Việt Nam đang chuyển giao công nghệ nghiên cứu, thử nghiệm các loại vaccine phòng Covid-19 gồm: Nanocovax, Covivac, ARCT-154, HIPRA, Sputnik V, Shionogi và một số loại vaccine của Cuba, Ấn Độ...

Thời điểm tháng 5 khi dịch bùng phát tại TP Hồ Chí Minh, khi đó, vaccine về Việt Nam rất chậm và tỷ lệ tiêm cũng chưa cao. Theo số liệu thống kê, trong tháng 5, cả nước mới tiêm được khoản hơn 1 triệu liều vaccine. Trước tình hình dịch gia tăng nhanh chóng bởi sự tấn công của biến chủng Delta, Chính phủ, Bộ Y tế và các ngành, các cấp đã cùng vào cuộc để nhanh chóng đàm phán có nguồn vaccine về Việt Nam.

Đầu quý 2 năm 2021, dự báo lạc quan nhất của thế giới cho rằng sau ít nhất 1 năm, tức tháng 4/2022 Việt Nam mới có thể đạt được mục tiêu bao phủ vaccine cho người dân. Tuy nhiên, với những nỗ lực vô cùng to lớn về tiếp cận nguồn vaccine, thực hiện chiến dịch tiêm chủng và sự hưởng ứng của người dân, Việt Nam đã về đích sớm.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá, trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát rất mạnh, chúng ta đưa ra được các chiến lược: Chiến lược vaccine; thành lập Quỹ vaccine; thành lập Tổ Ngoại giao vaccine; phát động chiến dịch tiêm vaccine lớn nhất cho toàn dân. Đồng thời dùng mọi biện pháp, mọi hình thức để đưa được vaccine về nước. Kết quả rất đáng mừng đến hết ngày 18/1, cả nước đã tiêm được hơn 172 triệu liều, tỷ lệ bao phủ ít nhất 1 liều vaccine cho người 18 tuổi trở lên đạt 100% và tỷ lệ tiêm đủ liều cơ bản hơn 94% và tỷ lệ tiêm liều nhắc lại là 13,1%. Về tốc độ và tỷ lệ bao phủ tiêm chủng, Việt Nam là 1 trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ vaccine lớn trên thế giới, về đích trước 6 tháng so với mục tiêu trên 70% dân số được tiêm đủ liều cơ bản do WHO khuyến cáo.

Thế giới đã chứng minh, chỉ khi có thuốc điều trị và vaccine, nhân loại mới có thể sống chung hòa bình với virus SARS-CoV-2. Thực tế, khi thế giới có tỷ lệ tiêm vaccine cao, nhiều nước đã mở cửa trở lại. Việt Nam mặc dù đi sau các nước về việc triển khai tiêm vaccine nhưng tốc độ tăng rất nhanh kể từ khi xuất hiện làn sóng dịch thứ tư tại Việt Nam. Nhờ đó, cả nước cũng không cần triển khai các biện pháp giãn cách xã hội trên diện rộng, không còn có những chính sách không đồng nhất giữa các địa phương về chống dịch, “ngăn sông cấm chợ” hay kỳ thị người ở các địa phương có dịch. Tỷ lệ tiêm vaccine nhanh giúp cho ngành y tế đã phần nào giảm bớt gánh nặng khi phải tiếp nhận bệnh nhân chuyển nặng và tử vong nhanh chóng như thời điểm đầu.

Ngành y tế thần tốc hơn nữa trong thực hiện chiến dịch tiêm chủng vaccine. Trong quý I/2022 phải hoàn thành việc tiêm mũi thứ 3 cho người từ 18 tuổi. Việc tiêm vaccine cho trẻ từ 5 tuổi tiến hành theo kết luận của cấp có thẩm quyền và cần nghiên cứu, đánh giá kỹ tác động.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính

Theo nhận định của các chuyên gia, tỷ lệ tiêm vaccine nhanh giúp cho ngành y tế đã phần nào giảm bớt gánh nặng khi phải tiếp nhận bệnh nhân chuyển nặng và tử vong nhanh chóng như thời điểm đầu. Trước đây tỷ lệ chuyển nặng tới khoảng 20% thì hiện nay, nhờ chiến lược tiêm bao phủ 2 mũi vaccine, tỷ lệ chuyển nặng có thể giảm tới 10%. Bao phủ vaccine chính là cơ hội để các địa phương chuyển sang phương án chống dịch thích ứng với tình hình mới.

PGS, TS Lê Minh Khôi, Phó Giám đốc Trung tâm hồi sức người bệnh Covid-19 của Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh nhấn mạnh, không có vaccine, chắc chắn sẽ không có bình thường mới. Phân tích từ Trung tâm Hồi sức người bệnh Covid-19 của Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, theo bác sĩ Khôi, tỷ lệ tiêm ngừa vaccine tại TP Hồ Chí Minh rất cao, nhưng 30% số người nằm hồi sức tại đây chưa được tiêm vaccine, số người tiêm 1 mũi vaccine là 27,8%, 2 mũi vaccine 32,3%. Những trường hợp này vào đây chủ yếu do có bệnh nền nhiễm SARS chứ không phải bệnh nặng do virus SARS-CoV-2 gây nên.

Tỷ lệ bệnh nhân nằm tại khu hồi sức tích cực chưa tiêm vaccine cao. (Ảnh: Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh)

Tỷ lệ bệnh nhân nằm tại khu hồi sức tích cực chưa tiêm vaccine cao. (Ảnh: Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh)

“Rõ ràng vaccine có bảo vệ rất tốt. Nếu không có vaccine, những bác sĩ làm công tác hồi sức cấp cứu như chúng tôi đành phải bó tay từ lâu vì tỷ lệ chuyển nặng quá nhiều. So với người không chích vaccine thì người đã tiêm đủ 2 mũi vaccine có nguy cơ thấp diễn tiến nặng xấp xỉ 10 lần. Hiện nay, quy tắc 5K không còn vai trò như trước. Khi chúng ta mở cửa phải chấp nhận có sự lưu hành F0 trong cộng đồng. Vì thế, chỉ có vaccine mới tạo ra miễn dịch cộng đồng tốt nhất. Vaccine không bảo vệ hoàn toàn người tiêm khỏi bệnh nặng nhưng chắc chắn có tác dụng bảo vệ rất lớn”, bác sĩ Khôi cho hay.

Do vậy, bác sĩ Khôi cho rằng, muốn đi lâu dài với đại dịch, sống và làm việc bình thường, mở cửa, phát triển kinh tế và thậm chí chuẩn bị đối mặt với biến chủng Omicron thì thì vaccine vẫn là “vũ khí đầu tay”.

Đánh giá về điều này, PGS, TS Nguyễn Việt Hùng, Phó chủ tịch Hội Kiểm soát Nhiễm khuẩn Hà Nội cho rằng, vaccine rất quan trọng, đặc biệt với biến thể Omicron. “Nếu tăng cường tiêm thêm mũi vaccine, chúng ta mới có thể sống qua cơn bão dịch vào dịp cuối năm này. Vaccine là một chiến lược mà Việt Nam cần phải tiếp tục thực hiện chứ không phải chúng ta đã hoàn thành”, ông Hùng nói.

Ngày 20/1, tại lễ triển khai công tác ngành y tế năm 2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã phát động chiến dịch tiêm chủng vaccine Covid-19 mùa xuân 2022 từ ngày 1/2 đến ngày 28/2, giao cho Bộ Y tế xây dựng kế hoạch tiêm vaccine xuyên Tết Nguyên đán. Thủ tướng đề nghị các địa phương phải thực hiện thần tốc tiêm vaccine, nếu không hoàn thành mục tiêu tiêm chủng đề ra thì Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, nhân dân; còn thiếu vaccine là trách nhiệm của Bộ trưởng Y tế. 

Về tiêm vaccine cho trẻ từ 5-11 tuổi, hiện Bộ Y tế đã báo cáo Bộ Chính trị đề xuất và xin ý kiến chỉ đạo tiêm cho đối tượng này, đồng thời cho phép mua 21,9 triệu liều vaccine phòng Covid-19 của Pfizer/BioNTech để có thể triển khai tiêm cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi.

Cần sớm tự chủ cung ứng thuốc điều trị


Cùng với vaccine, thuốc là vũ khí hữu hiệu để tới đây Việt Nam có thể chung sống hòa bình với SARS-CoV-2. Với tốc độ lây nhiễm nhanh của nhiều biến chủng mới, việc giảm ca mắc là khó. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể khống chế được giảm nặng và giảm tử vong qua việc nhanh chóng tiếp cận các loại thuốc điều trị.

Năm qua, Việt Nam cũng đã đưa vào Chương trình thí điểm điều trị có kiểm soát chặt chẽ thuốc Molnupiravir. Dựa trên kết quả đánh giá giữa kỳ thử nghiệm tại Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Phổi Trung ương, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh cho thấy tính an toàn và hiệu quả thuốc, Bộ Y tế đã cho phép triển khai Chương trình sử dụng thuốc có kiểm soát Molnupiravir cho các trường hợp mắc Covid-19 thể nhẹ tại cộng đồng tại 46 địa phương có dịch với hơn 300.000 liều.

Theo đại diện Bộ Y tế, các kết quả báo cáo giữa kỳ của chương trình điều trị thuốc Molnupiravir tại 22 tỉnh/thành phố cho thấy thuốc có tính an toàn cao, dung nạp tốt, hiệu quả rõ rệt về giảm tải lượng virus, giảm lây lan, giảm chuyển nặng, rút ngắn thời gian điều trị với tỷ lệ bệnh nhân có kết quả xét nghiệm RT-PCR sau 5 ngày âm tính hoặc dương tính với giá trị CT ≥ 30 từ 72,1% đến 99,1%; tỷ lệ bệnh nhân có kết quả xét nghiệm RT-PCR sau 14 ngày âm tính hoặc dương tính với giá trị CT ≥ 30 gần 100%; tỷ lệ chuyển nặng rất thấp từ 0,02%-0,06% và không có ca nào dẫn đến tử vong.

Chương trình thí điểm thuốc có kiểm soát Molnupiravir cho các trường hợp mắc Covid-19 thể nhẹ tại nhà và cộng đồng đã triển khai tại 53 tỉnh, thành phố. Bộ Y tế cũng đang triển khai thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1, 2, 3 với một số thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu xuất phát từ các bài thuốc, vị thuốc cổ truyền để phòng và điều trị Covid-19. Kết quả giai đoạn 2 cho thấy các thuốc cổ truyền có tính an toàn. Về hiệu quả cần được tiếp tục chứng minh trong các nghiên cứu giai đoạn 3 với cỡ mẫu lớn hơn

Thứ trưởng Y tế Nguyễn Trường Sơn. (Ảnh: Bộ Y tế)

Thứ trưởng Y tế Nguyễn Trường Sơn. (Ảnh: Bộ Y tế)

Theo Thứ trưởng Y tế Nguyễn Trường Sơn, hiện nay Việt Nam đã tiếp cận với nhiều loại thuốc điều trị cả thuốc kháng virus, kháng thể đơn dòng, thuốc ức chế sự nhân lên của virus… Hiện có khoảng 10 doanh nghiệp trong nước nộp hồ sơ đăng ký thuốc điều trị Covid-19 Molnupiravir có năng lực sản xuất ít nhất 1 triệu liều/ngày. Tuy nhiên, hiện chúng ta còn đang vướng thủ tục cấp phép.

“Tôi nghĩ, khi dịch còn tiếp tục diễn biến dai dẳng, khi chúng ta đã có miễn dịch một phần nhờ tiêm vaccine, thì quan trọng nhất là cần phải có thuốc điều trị. Chúng ta nếu chủ động được việc cung ứng thuốc điều trị, tự chủ sản xuất trong nước sẽ giúp cho gánh nặng của hệ thống điều trị giảm xuống. Bệnh nhân được điều trị thuốc sớm, trúng đích sẽ giảm tỷ lệ chuyển nặng, giảm biến chứng cho bệnh nhân, giảm nguy cơ tử vong. Vì thế, thuốc điều trị là vấn đề cấp thiết của chúng ta trong năm tới đây để chúng ta có thể hoàn toàn trở lại bình thường mới, mở cửa trở lại với thế giới”, Thứ trưởng nói.

Bộ Y tế đang tiếp cận các loại thuốc đều trị Covid-19 hiện đang lưu hành và nghiên cứu trên thế giới để làm sao đưa lượng thuốc về với tỷ lệ cao nhất, đáp ứng cho nhu cầu điều trị của bệnh nhân nặng. Khi thuốc này được cấp phép hoặc được hướng dẫn của cơ quan chuyên môn của thế giới và trong nước, hy vọng thuốc được đưa về đầy đủ sẽ góp phần điều trị cho bệnh nhân trong nước và giảm thiểu tử vong.

Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 đặt mục tiêu trong năm 2022, Việt Nam sẽ có vaccine sản xuất trong nước và đáp ứng ít nhất 50% nhu cầu vaccine đến cuối năm 2023. Đồng thời, tạo mọi điều kiện thúc đẩy nhanh nhất việc sản xuất thuốc điều trị Covid-19 trong nước, bảo đảm sản xuất được ít nhất một loại thuốc điều trị đặc hiệu trong năm 2022-2023, chủ động nguồn thuốc điều trị.

Đầu tư cho y tế cơ sở


Trong đại dịch vừa qua, đặc biệt tại TP Hồ Chí Minh, các tỉnh phía nam và gần nhất là Hà Nội, các trung tâm kiểm soát bệnh tật và hệ thống y tế cơ sở giữ một trọng trách lớn vì y tế cơ sở kiêm rất nhiều việc khác nhau trong chăm sóc sức khỏe. Y tế cơ sở phải gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề trong đại dịch, khi vừa làm nhiệm vụ chuyên môn của thu dung, điều trị, vừa làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người dân tại nhà. Nhân viên y tế tuyến cơ sở làm mọi việc từ truy vết, chăm sóc ban đầu và quản lý F0 tại nhà, xét nghiệm, cách ly.

Thứ trưởng Y tế Nguyễn Trường Sơn cho biết, kể từ khi Việt Nam bước vào làn sóng thứ tư, chúng ta mới thấy vai trò của y tế cơ sở rất quan trọng. Thực tế, khi các cơ sở thu dung điều trị quá tải, bệnh nhân ồ ạt nhập viện, lực lượng nhân viên y tế tại chỗ quá tải không thể đảm nhiệm được công tác quản lý, điều trị, tỷ lệ bệnh nhân chuyển nặng và tử vong nhiều khiến chúng tôi có lúc lặng người đi vì đau thương, mất mát. Sự chuyển hướng để F1 cách ly tại nhà, F0 tự điều trị tại nhà có nhân viên y tế tại trạm lưu động quản lý, kiểm soát và điều trị đã giúp cho TP Hồ Chí Minh vượt qua được giai đoạn khủng hoảng nhất.

“Bộ Y tế phải cụ thể hóa chương trình phòng chống dịch năm 2022 và 2023 với mục tiêu bảo vệ người dễ bị tổn thương, người có nguy cơ cao, người tham gia tuyến đầu phòng chống dịch. Không để khủng hoảng, đổ bể hệ thống y tế. Tập trung cho y tế cơ sở và y tế dự phòng, đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo nhân lực ngành y. Phải nắm chắc dự báo tình hình, tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, đặc biệt là trước biến chủng mới Omicron”.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính

Tuy nhiên đến nay, lực lượng nhân viên y tế ở các trung tâm y tế dự phòng, các trạm y tế xã còn tương đối mỏng, thiếu và yếu về chuyên môn. nhân lực không phải 100% xã đều có bác sĩ. Xác định sẽ cần tới ít nhất một năm nữa phải chống chọi với những cơ khủng hoảng của đại dịch, khi coi y tế cơ sở là nòng cốt, là người gác cổng cho sức khỏe nhân dân, Thứ trưởng nhấn mạnh, Việt Nam cần phải đầu tư hơn nữa cho hệ thống y tế cơ sở.

Hiện nay khối dự phòng đã có đề án tăng cường cho Trung tâm Kiểm soát bệnh tật các tỉnh, thành phố. Ngành y tế cũng rất cần sự vào cuộc của chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị-xã hội khi diễn biến dịch tăng cao bởi ngành y tế chỉ là đơn vị tham mưu, đề xuất kỹ thuật.

Theo PGS, TS Nguyễn Việt Hùng, Phó Chủ tịch Hội Kiểm soát nhiễm khuẩn Trung ương, Việt Nam cần phải xem xét lại nghiêm túc nhân lực cho y tế cơ sở bởi lực lượng này đang quá tải. Quá tải trong điều trị sẽ nguy hiểm đến tính mạng con người. Cần đầu tư thêm trang thiết bị để có phương tiện hỗ trợ cấp cứu những tình huống ban đầu của người nhiễm Covid-19 như trường hợp sốt cao, co giật, sốc phản vệ hay hỗ trợ công nghệ thông tin để quản lý ca bệnh nhẹ. Ngành y tế cũng cần xem xét chế độ cho người tham gia chống dịch, nhất là người vào tâm dịch nóng để họ có thêm động lực tiếp tục công việc nguy hiểm này.

Bên cạnh đó, xét nghiệm là một mảng quan trọng để chẩn đoán, theo dõi điều trị có độ chính xác với chi phí phù hợp. Qua đại dịch, năng lực xét nghiệm của chúng ta đã được nâng cao hơn so với trước. Ban đầu cả nước chỉ có khoảng 4 phòng xét nghiệm được SARS-CoV-2 hiện có hơn 300 đơn vị xét nghiệm PCR, ngoài ra còn xét nghiệm mới X-pert, giải trình tự gene. Theo các chuyên gia, trong tương lai, để chống dịch, cần phải nâng cao hơn nữa năng lực xét nghiệm, cho phép và hướng dẫn người dân tự lấy mẫu tại nhà. Để người dân hợp tác và lấy mẫu tốt, xét nghiệm đi kèm với thông báo nếu dương tính, bệnh nhân sẽ được y tế cơ sở chăm sóc sức khỏe và cung cấp thực phẩm trong quá trình cách ly tại nhà.

Việt Nam cần phải bảo đảm tiến độ triển khai tiêm vaccine; tạo mọi điều kiện thuận lợi, đẩy nhanh tiến độ sản xuất vaccine trong nước. Nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện nâng cao năng lực giám sát dịch tễ; tiếp tục tăng cường xét nghiệm theo địa bàn, nhóm nguy cơ và tại ổ dịch. Tăng cường đầu tư, củng cố hệ thống y tế cơ sở; tăng đầu tư trang thiết bị, cơ sở y tế, điều chỉnh chế độ phụ cấp ưu đãi nghề cho cán bộ y tế dự phòng, y tế cơ sở.Về thuốc điều trị, cần tạo mọi điều kiện thúc đẩy nhanh nhất việc sản xuất thuốc trong nước, bảo đảm sản xuất được ít nhất 1 loại thuốc điều trị đặc hiệu trong năm 2022-2023; chủ động nguồn thuốc điều trị. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực cho các lực lượng tham gia phòng, chống dịch, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.  Song song với đó cần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với phòng, chống dịch.
PGS, TS Nguyễn Văn Kính, Chủ tịch Hội Truyền nhiễm Việt Nam
Item 1 of 5

Nâng cao năng lực hồi sức các tuyến, bảo vệ nhóm nguy cơ

Covid-19 là một phép thử cho năng lực ứng phó của ngành y tế Việt Nam. Và đại dịch đã cho thấy, chúng ta vẫn còn nhiều kẽ hở trong công tác đào tạo, nâng cao năng lực điều trị tại nhiều tuyến. Đặc biệt là công tác hồi sức cấp cứu.

Làn sóng thứ tư chứng kiến nhiều F0 ra đi nhanh chóng vì sự quá tải của phân tuyến điều trị và bởi thiếu trang thiết bị, nhân lực y tế cho việc chăm sóc F0 chuyển nặng nhanh. Chưa khi nào ngành y tế trải qua cuộc đào tạo khẩn cấp ở mọi tuyến để nâng cao năng lực cho nhân viên hồi sức. Giữa tháng 8/2021, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long yêu cầu các bệnh viện lập danh sách các bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên đang làm và dự kiến huy động làm cấp cứu, hồi sức tích cực điều trị người bệnh Covid-19. Xác định đây là công việc hết sức cấp bách, Bộ trưởng yêu cầu các đơn vị đào tạo, tập huấn cấp tốc về cấp cứu, hồi sức tích cực, sử dụng máy thở và các nội dung cần thiết khác bằng các hình thức tại chỗ, trực tuyến… Bộ Y tế đã thành lập 11 trung tâm hồi sức các tuyến, trong đó có 6 trung tâm lớn tại TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam. Nhờ đó, tỷ lệ chuyển nặng và tử vong được khống chế dần.

Thích ứng với đại dịch năm 2022, để công tác điều trị người bệnh Covid-19 tốt hơn, Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn nhấn mạnh, toàn hệ thống điều trị rà soát khả năng đáp ứng của các cơ sở thu dung, điều trị Covid-19, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác điều trị các tuyến. Cung ứng và bảo đảm đầy đủ thuốc, vật tư tiêu hao, trang thiết bị, trang phục phòng hộ cá nhân. Song song đó tiếp tục đầu tư nguồn lực để mở rộng, tăng cường năng lực hồi sức tích cực. Huy động các cơ sở y tế của nhà nước và tư nhân tham gia điều trị Covid-19 và thực hiện mục tiêu kép vừa triển khai khám chữa bệnh thông thường, vừa tham gia điều trị, hồi sức tích cực Covid-19.

Các địa phương thực hiện đầy đủ việc "Phân loại nguy cơ người nhiễm SARS-CoV-2 và định hướng xử trí, cách ly, điều trị" theo Quyết định đã ban hành ngay từ trạm y tế, tổ Covid cộng đồng đến các cơ sở thu dung, điều trị. Trạm y tế cần lập danh sách các trường hợp F0 tại nhà và phân loại theo các nhóm nguy cơ để quản lý. Các cơ sở thu dung, điều trị cần phân loại nguy cơ người bệnh Covid-19 ngay từ khi nhập viện, đồng thời đánh giá mức độ lâm sàng, tiến triển của bệnh để phân luồng người bệnh vào các khoa, buồng bệnh phù hợp, thuận tiện cho việc theo dõi chăm sóc, điều trị và xử trí.

Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn nhấn mạnh, việc giám sát vùng nguy cơ cao để bảo đảm phát hiện sớm các ca mắc là rất cần thiết, từ đó cách ly, điều trị và có giải pháp xử trí phù hợp, góp phần hạn chế trường hợp tử vong.

"Để làm được vệc trên phải kiểm soát ca mắc, tăng cường năng lực điều trị, sử dụng thuốc sớm, trong đó có nhiều thuốc mới, thuốc kháng thể đa dòng, kèm theo đó là đảm bảo oxy cho người bệnh từ tuyến cơ sở đến bệnh viện các tầng 1, 2, 3. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng của hệ thống khám chữa bệnh", Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn nói.

Nâng cao năng lực hồi sức các tuyến là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Nâng cao năng lực hồi sức các tuyến là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

PGS, TS Nguyễn Trường Sơn cũng đặc biệt lưu ý các cơ sở điều trị cũng như hệ thống theo dõi sức khoẻ người bệnh ban đầu cần theo dõi chặt chẽ tình trạng người bệnh để tiên lượng sớm, kịp thời phát hiện các dấu hiệu tăng nặng. Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các tuyến điều trị, tuyệt đối tránh tình trạng chuyển tầng khi đã quá muộn. Trong phân loại người bệnh cần tập trung vào nhóm người nguy cơ cao- những người trên 50 tuổi, có bệnh nền, đặc biệt người chưa tiêm, chưa tiêm đủ liều vacine phòng Covid-19 để giám sát chặt chẽ, điều trị kịp thời, phù hợp. Cùng đó, cần củng cố hệ thống cấp cứu, vận chuyển kịp thời người bệnh từ cộng đồng đến bệnh viện và giữa các bệnh viện.

Điều trị luôn là vấn đề quan trọng trong giảm tử vong. Trong thời gian vừa qua, Bộ Y tế đã liên tục cập nhật các phác đồ điều trị tiệm cận với thế giới. Cho đến nay chúng ta bước đầu có kinh nghiệm trong chống dịch nhưng điều kiện cơ sở hạ tầng, thuốc, nhân lực được đào tạo về vấn đề điều trị vẫn tiếp tục được tăng cường. Đặc biệt hệ thống hậu cần, ung ứng ô xy, cung ứng vật tư, phương tiện phòng hộ cá nhân. Bên cạnh đó, chúng ta cũng không được quên chăm sóc điều trị cho những bệnh nhân khác. Bởi nếu chỉ tập trung hết cho Covid-19 thì tỷ lệ tử vong rơi vào nhóm cần chăm sóc y tế mà không được can thiệp kịp thời.

Thứ trưởng Y tế Nguyễn Trường Sơn đánh giá, qua đợt dịch lần thứ tư, năng lực hồi sức của ngành y tế được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, hiện nay lực lượng hồi sức cấp cứu còn mỏng cần quá trình đào tạo bổ sung lực lượng.

“Đầu tiên, chúng ta phải tăng cường thêm các trang thiết bị cho công tác hồi sức. Từ bệnh viện tuyến tỉnh trở lên phải có hệ thống máy thở oxy hỗ trợ. Bên cạnh đó, chú trọng đào tạo, tập huấn kỹ năng cho đội ngũ nhân lực, phải nâng cao năng lực hệ thống cấp cứu điều trị. Do đó, phải nhanh chóng tạo điều kiện cho lực lượng khác như bác sĩ nội khoa, truyền nhiễm, gây mê được đào tạo chuyên sâu về hồi sức Covid-19 để có thể tham gia vào khâu điều trị khi số ca nặng tăng nhanh. Cách thức chúng tôi lựa chọn là đào tạo theo ê-kíp, cả bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên để có thể phối hợp trong quá trình chăm sóc bệnh nhân. Ngoài ra các sinh viên năm cuối trường y dược cũng được đào tạo để sẵn sàng được huy động tham khi dịch xảy ra tại một số địa phương. Bên cạnh đó, ngành y tế cũng mở rộng đào tạo y khoa hồi sức thời gian tới để có lực lượng hùng hậu hơn cho cấp cứu các ca bệnh”, Thứ trưởng nói.

Theo bác sĩ Đồng Sĩ Khiêm, Phó khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cuối năm 2021, bệnh viện đã tiếp nhận nhiều bác sĩ đến từ các bệnh viện tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố lân cận vừa chi viện điều trị, vừa trực tiếp học tập các kỹ thuật hồi sức. Nhờ đó, hiện nay, lực lượng này đang “chia lửa” cho tuyến đầu Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, đã tự tin thực hiện các kỹ thuật can thiệp thở máy, nội khí quản, can thiệp ECMO ở tuyến dưới.

Bác sĩ Khiêm bày tỏ, trong những năm qua, ngành hồi sức cấp cứu đã nỗ lực đào tạo cho hệ thống các bệnh viện phía bắc. Tuy nhiên, ngành hồi sức áp lực rất lớn, công việc năng nhọc nhưng chế độ đãi ngộ thấp hơn so với nhiều chuyên ngành khác nên khó thu hút được nhân lực. Trải qua đại dịch, các phương tiện vật chất phục vụ cho hồi sức được trang bị khá đầy đủ, nhân viên cũng được đào tạo nhiều. Tuy nhiên, muốn duy trì, tận dụng cơ sở vật chất này, Nhà nước cần có chính sách, đãi ngộ nhất định để thu hút nhân viên y tế tham gia vào chuyên ngành hồi sức cấp cứu.

“Mô hình bệnh tật của Việt Nam liên quan đến các bệnh lý lây nhiễm nhiều. Nếu hệ thống hồi sức cấp cứu được triển khai tốt từ cơ sở trở lên thì cơ hội chăm sóc người dân tốt hơn, nâng cao chất lượng điều trị”, bác sĩ Khiêm nói.

Người dân được theo dõi sức khỏe tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Người dân được theo dõi sức khỏe tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Người cao tuổi, có bệnh nền được tiêm chủng tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Người cao tuổi, có bệnh nền được tiêm chủng tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tiêm cho người cao tuổi tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tiêm cho người cao tuổi tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Những đối tượng đặc biệt được tiêm chủng tại gia đình. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Những đối tượng đặc biệt được tiêm chủng tại gia đình. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Item 1 of 4

Người dân được theo dõi sức khỏe tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Người dân được theo dõi sức khỏe tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Người cao tuổi, có bệnh nền được tiêm chủng tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Người cao tuổi, có bệnh nền được tiêm chủng tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tiêm cho người cao tuổi tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tiêm cho người cao tuổi tại nhà. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Những đối tượng đặc biệt được tiêm chủng tại gia đình. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Những đối tượng đặc biệt được tiêm chủng tại gia đình. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Theo quan điểm của PGS, TS Lê Minh Khôi, ngành y tế cần chú trọng điều chuyển các bác sĩ, cứ 2-3 năm thử sức ở lĩnh vực hồi sức tích cực 3-6 tháng để mài giũa lại chuyên môn, hỗ trợ chuyên môn ở khoa. Đó là giải pháp lâu dài để không may xảy ra vụ dịch lớn như Covid-19, lực lượng này sẽ đáp ứng với tình hình chống dịch. Các bệnh viện trong quá trình xây dựng cũng phải tính tới yếu tố dịch bệnh truyền nhiễm, phải có luồng riêng và có thể chuyển đổi công năng rất tốt.

Để chủ động ứng phó lâu dài với đại dịch, ngành y tế cần đón đầu tình hình dịch bệnh trong đó nghiên cứu phát triển các sinh phẩm, xét nghiệm chẩn đoán, xét nghiệm, các phương pháp điều trị mới, ứng dụng mới trong điều trị, nghiên cứu về dịch tễ học để đối phó với biến chủng mới. Việt Nam cũng cần tăng cường năng lực, tăng cơ hội phát triển công nghệ sản xuất vaccine và sản xuất các sinh phẩm. “Khi có nền tảng tốt, chúng ta sẽ đáp ứng tốt hơn cho bất kỳ đại dịch nào xuất hiện tới đây”, Thứ trưởng Nguyễn Trường Sơn nói.

Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH
Nội dung: THẢO LÊ - THIÊN LAM
Ảnh: HẢI AN, THÀNH ĐẠT, BỘ Y TẾ
Đồ Họa: DIỆU THU
Trình bày: PHAN ANH - ĐỨC DUY - THIÊN LAM