Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định kinh tế số là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng nhất đối với nền kinh tế Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Điều này đòi hỏi phải có bước thay đổi căn bản về tư duy để có thể nhanh chóng xây dựng cơ chế, chính sách xứng tầm để khai phóng nguồn lực mới này.

Việt Nam đang ở vào giai đoạn cải cách có tính bước ngoặt. Bài toán thách thức nhất đang đặt ra là làm thế nào để tránh được bẫy thu nhập trung bình, tạo nền tảng và những xung lực mới thúc đẩy tăng trưởng dựa trên tăng năng suất và phát triển nhanh, bền vững.

Động lực tăng trưởng mới

Năm 2023, vị thế của Việt Nam tiếp tục được củng cố khi lọt vào top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, quy mô GDP vượt ngưỡng 400 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hơn 4.000 USD, dân số cán mốc 100 triệu người.

Tuy nhiên, năng suất lao động vẫn là điểm yếu khiến Việt Nam còn tụt hậu so với các nước trong khu vực.

Báo cáo năng suất lao động giai đoạn 2011-2020 do Tổng cục Thống kê công bố tháng 2/2023 cho thấy, về quy mô kinh tế, Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á, nhưng năng suất lao động chỉ bằng 11,3% năng suất của quốc gia dẫn đầu là Singapore.

Trong nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về năng suất lao động ở Việt Nam được thực hiện năm 2020, PGS Tô Trung Thành và Nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế quốc dân đưa ra các kịch bản dự báo năng suất lao động đến năm 2030.

Cụ thể, nếu chuyển đổi số chậm, tốc độ tăng năng suất lao động trung bình của Việt Nam là 6,25%/năm, trong đó kinh tế số đóng góp 0,43%.

Nếu chuyển đổi số, gia tăng ứng dụng công nghệ số và phát triển ngành công nghệ thông tin, tốc độ tăng năng suất lao động có thể đạt 6,97% với sự đóng góp 1,15% từ kinh tế số.

Trong bối cảnh những động lực tăng trưởng đang trở nên dần cạn kiệt và thiếu hiệu quả, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số mang lại cho Việt Nam cơ hội để cải thiện mạnh mẽ mức năng suất lao động tổng thể nền kinh tế, từ đó đạt được phát triển bền vững và chống đỡ được các cú sốc từ bên ngoài
PGS Tô Trung Thành

Với cú huých của đại dịch Covid-19, công nghệ số đang làm thay đổi mô hình kinh doanh, cơ cấu ngành và thậm chí làm thay đổi kinh tế ngành theo những cách chưa từng có.

Theo cảm nhận của TS Võ Trí Thành, Viện trưởng Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh, nền kinh tế số vận hành trong không gian số không chỉ đang bùng nổ mà còn “nhúng” ngày càng sâu vào nền kinh tế thực, làm thay đổi về chất của nhiều ngành truyền thống.

Khách tham quan những thành tựu tại triển lãm chuyển đổi số ngành ngân hàng.

Khách tham quan những thành tựu tại triển lãm chuyển đổi số ngành ngân hàng.

Như trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại điện tử với các loại hình giao dịch online, kinh doanh nền tảng đang làm lu mờ hệ thống chợ, siêu thị, cửa hàng tiện lợi.

Lĩnh vực tài chính cũng đang chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ và cấu trúc khi công nghệ fintech, tài chính thông minh, cho vay ngang hàng P2P lấn sân các định chế tài chính truyền thống.

Hệ thống ngân hàng đầu tư 15.000 tỷ đồng chuyển đổi số

Ngân hàng được đánh giá là một trong những lĩnh vực đi đầu trong chuyển đổi số. Nhiều ngân hàng xem chuyển đổi số, phát triển mô hình, hoạt động ngân hàng số là mục tiêu trong chiến lược kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Từ năm 2022, Ngân hàng Nhà nước quyết định chọn ngày 11/5 hằng năm được chọn là Ngày chuyển đổi số ngành ngân hàng, có ý nghĩa quan trọng giúp xác định rõ định hướng, kế hoạch triển khai của toàn ngành trong xu thế chuyển đổi số.

Khác với những dự án công nghệ thông tin trước đây, chuyển đổi số trong ngành ngân hàng đòi hỏi phải có chiến lược tổng thể để thống nhất về tư duy hành động.

Chiến lược đó gồm các thành tố quan trọng: Mỗi ngân hàng phải có tập hợp dữ liệu xử lý và xây dựng hạ tầng số cho đơn vị mình; sửa đổi quy trình làm việc, thậm chí sửa đổi văn hóa cả ngành đó; thực hiện đúng quy trình áp dụng số hóa và có các bước kiểm tra hoàn chỉnh quá trình này.

Chuyển đổi số trong ngành ngân hàng có nhiều yếu tố thuận lợi vì đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện nên quy trình tương đối chặt chẽ. Hơn nữa, ngành ngân hàng có hệ thống hạ tầng thông tin hiện đại, mỗi ngân hàng đều có cơ sở dữ liệu khách hàng để triển khai số hóa cùng với hệ thống thông tin quản lý riêng...

Khó khăn lớn nhất của quá trình chuyển đổi số là nguồn lực tài chính và con người. Chuyển đổi số đòi hỏi cán bộ phải đồng thời có kiến thức về công nghệ thông tin và kiến thức về hoạt động ngân hàng, tài chính. Về vốn đầu tư, top 10 ngân hàng lớn có bước tiến bộ nhất trong chuyển đổi số đã đẩu tư khoảng 15.000 tỷ đồng/năm, tương ứng với 1.500 tỷ/năm đối với mỗi ngân hàng.

Đến nay, 95% các nghiệp vụ về thanh toán cũng như tiền gửi về cơ bản được thực hiện qua công nghệ số. Có những khách hàng cá nhân gần như giao dịch 100% qua công nghệ số.

Theo Ngân hàng Nhà nước, 95% ngân hàng trên cả nước đã xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Các công nghệ thời 4.0 như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn đã được các nhà băng tiếp cận, ứng dụng thành sản phẩm thân thiện với người dùng.

Hãng tư vấn chiến lược toàn cầu McKinsey đánh giá, năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam có mức độ ứng dụng ngân hàng số nhanh nhất trong khu vực, cao hơn mức tăng bình quân của toàn khu vực và thậm chí cao hơn mức tăng bình quân của thị trường mới nổi.

Trong nông nghiệp, lối canh tác “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” phụ thuộc vào thời tiết đang chuyển nhanh sang phương thức canh tác theo công nghệ cao, dần khép lại truyền thống sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, tự phát.

Những nét vẽ sống động của kinh tế số ở giai đoạn phát triển đầu tiên, như cảm nhận của TS Võ Trí Thành, được xây dựng bởi những doanh nghiệp tiên phong tận dụng được hiệu quả và cơ hội từ đổi mới công nghệ, chuyển đổi số để tăng tốc bứt phá.

Dàn máy gặt của Lộc Trời trên cánh đồng lúa đi EU.

Dàn máy gặt của Lộc Trời trên cánh đồng lúa đi EU.

Nhìn lại sự phát triển tại Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời, những đột phá về công nghệ trong kinh tế số đang dẫn đến những điều kỳ diệu trong sản xuất nông nghiệp.

Số hóa giúp Lộc Trời trở thành doanh nghiệp đầu tiên tạo được chứng chỉ carbon cho cây lúa tại Việt Nam, có năng lực sản xuất trên diện tích hơn một triệu ha, đáp ứng bất cứ đơn hàng nào đi khắp thế giới.

Tham gia vào hệ sinh thái nông nghiệp chất lượng cao của Lộc Trời, nông dân không chỉ có doanh thu từ hạt lúa mà còn có lợi nhuận cao hơn từ khâu chế biến sản phẩm thứ cấp sau gạo như cám, vỏ trấu,… theo mô hình kinh tế tuần hoàn.

Số hóa chính là lời giải cho bài toán kinh tế để tối ưu hóa lợi nhuận, tối ưu hóa các giá trị đạt được trên một đơn vị diện tích canh tác trong sản xuất nông nghiệp.
Từ khi có số hóa, quy trình sản xuất nông nghiệp minh bạch từ đầu vào đầu ra. Bất cứ chủ thể nào tham gia vào chuỗi sản xuất, từ doanh nghiệp, ngân hàng cho vay vốn đến người nông dân đều nhìn thấy lợi nhuận của nông dân trồng lúa hoàn toàn có thể lên tới 100%, không thua kém lợi nhuận của ngành tài chính-ngân hàng.
Đó chính là nguồn gốc cho sự trù phú của Đồng bằng sông Cửu Long. Chúng tôi đang nỗ lực nhiều hơn để chứng minh rằng luận điểm nông dân không thể giàu đã không còn đúng trong thời đại chuyển đổi số
Nguyễn Duy Thuận, Tổng Giám đốc Tập đoàn Lộc Trời

Kỹ sư nông nghiệp 3 Cùng cùng nông dân thăm đồng lúa Lộc Trời 28.

Kỹ sư nông nghiệp 3 Cùng cùng nông dân thăm đồng lúa Lộc Trời 28.

Với cơ cấu kinh tế hiện nay, khu vực nông nghiệp tuy chỉ đóng góp chưa đến 10% vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GDP), nhưng là lĩnh vực duy nhất “ghi điểm” về mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế Việt Nam. Thể hiện qua việc có thể tham gia định giá nhờ số lượng hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường quốc tế, nhất là với gạo, cà-phê, thủy sản.

Kinh tế số chính là con đường dẫn đến mục tiêu tổ chức thực hiện hiệu quả và thực chất các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế để đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động nhằm hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Dàn máy gặt của Lộc Trời trên cánh đồng vùng nguyên liệu.

Dàn máy gặt của Lộc Trời trên cánh đồng vùng nguyên liệu.

Sử dụng Drone quản lý mùa vụ-dịch hại trên vùng nguyên liệu Tập đoàn Lộc Trời.

Sử dụng Drone quản lý mùa vụ-dịch hại trên vùng nguyên liệu Tập đoàn Lộc Trời.

Lúa về nhà máy Thoại Sơn của Nông sản Lộc Trời.

Lúa về nhà máy Thoại Sơn của Nông sản Lộc Trời.

Xây dựng thể chế mở cho kinh tế số

Hiện chưa có dữ liệu thống kê chính thức đo mức độ trưởng thành của nền kinh tế số Việt Nam, nhưng cũng đã có những số liệu ước tính ban đầu.

Cơ quan thường trực của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số là Bộ Thông tin và Tuyền thông cho biết, năm 2022, tỷ trọng kinh tế số của Việt Nam đạt 14,26% GDP, tăng đáng kể so với mức 11,91% của năm 2021.

Nông sản Việt trên sàn giao dịch điện tử Postmart. (Ảnh minh họa)

Nông sản Việt trên sàn giao dịch điện tử Postmart. (Ảnh minh họa)

Tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ năm 2022 đạt khoảng 7,5%. Tổng số lượt tải mới các ứng dụng trên thiết bị di động của Việt Nam đạt 3,23 tỷ lượt, tiếp tục giữ vững vị trí số 9 toàn cầu về số lượt tải mới ứng dụng trên thiết bị di động.

Còn theo báo cáo e-conomy SEA năm 2022 của Google, Temasek và Bain Company, quy mô kinh tế số Việt Nam có thể đạt 50 tỷ USD vào năm 2050, trong đó thương mại điện tử có đóng góp quan trọng nhất.

Đây là những kết quả tích cực bước đầu trong phát triển kinh tế số, xã hội số.

Các giải pháp chuyển đổi số trưng bày tại Diễn đàn kinh tế thành phố Hồ Chí Minh năm 2022.

Các giải pháp chuyển đổi số trưng bày tại Diễn đàn kinh tế thành phố Hồ Chí Minh năm 2022.

Nhưng theo các chuyên gia kinh tế, nếu chỉ nhìn vào những thành công ban đầu của quá trình thực hiện số hóa hoạt động hành chính của cơ quan quản lý nhà nước (thủ tục hành chính công, Chính phủ điện tử…) để lạc quan về sự phát triển của kinh tế số ,sẽ khiến chúng ta đến một lúc nào đó phải chững lại vì không đủ nguồn lực về tài chính, con người để đi tiếp.

Khi đó, niềm tin vào kinh tế số, chuyển đổi số sẽ bị ảnh hưởng.

Thực hiện số hóa trong sản xuất mới chính là nhiệm vụ khó khăn và có tính chất quyết định đối với quá trình thúc đẩy kinh tế số, hướng tới phát triển bền vững.

TS Nguyễn Đức Kiên, Nguyên Tổ trưởng Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ luôn trăn trở về những kết quả rất tích cực mà Việt Nam đạt được về sự phát triển của xã hội số những năm qua.

Thực hiện số hóa trong sản xuất mới chính là nhiệm vụ khó khăn và có tính chất quyết định đối với quá trình thúc đẩy kinh tế số, hướng tới phát triển bền vững.

Năm 2020, Việt Nam có khoảng 60 triệu người sử dụng internet với thời lượng trung bình gần 7 giờ/ngày dành cho mạng xã hội. Đây là con số khác biệt so với nhiều quốc gia có kinh tế số phát triển vì dung lượng sử dụng internet của những quốc gia này chủ yếu đế từ khu vực các nhà máy, viện nghiên cứu, trường đại học.

Trong thực tế, quá trình chuyển đổi số ở khu vực doanh nghiệp phải đối diện với rất nhiều khó khăn.

Năm 2015, Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) chuyển sang khai thác thế hệ máy bay công nghệ mới A350 và Boeing 787, đặt mục tiêu năm 2020 trở thành hãng hàng không số nhưng không về đích đúng hẹn bởi những quy định đặc thù về cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp nhà nước và tiêu chuẩn khắt khe về an ninh hàng không.

Câu chuyện là, hãng muốn nâng cấp phần mềm hệ thống quản lý khách hàng thường xuyên cho 2 triệu khách hàng của mình và kết nối với data 150 triệu khách hàng của Liên minh hàng không toàn cầu SkyTeam, nhưng không đi theo hướng đầu tư dài hạn để tiết kiệm chi phí.

Vietnam Airlines triển khai công nghệ wifi trên máy bay.

Vietnam Airlines triển khai công nghệ wifi trên máy bay.

Sự thay đổi này dẫn đến tình huống phải xác định đây là khoản chi đầu tư hay chi thường xuyên, có làm phát sinh tài sản khấu hao hay không?

Để trả lời câu hỏi này, doanh nghiệp phải dừng nâng cấp dự án, chờ hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.

Đi theo tiêu chuẩn phục vụ khách hàng mới, Vietnam Airlines mua công nghệ wifi trên máy bay dùng cho 24 máy bay A350 và B878, nhưng sau 4 năm triển khai chỉ được phê duyệt thử nghiệm cho 4 máy bay ban đầu.

“Cách mạng công nghiệp 4.0 hay kinh tế số là xuất phát từ công nghệ nhưng để đưa công nghệ vào cuộc sống thì phải do thể chế quyết định”, đại diện Vietnam Airlines chia sẻ.

Đó là câu chuyện của trước năm 2020, khi Việt Nam chưa có thể chế cho phát triển cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số.

Nhưng ngay cả sau này, những vướng mắc đó vẫn tiếp tục là rào cản cho chuyển đổi số doanh nghiệp.

Khách tham quan những thành tựu tại triển lãm chuyển đổi số ngành ngân hàng.

Khách tham quan những thành tựu tại triển lãm chuyển đổi số ngành ngân hàng.

Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) liệt kê hàng loạt khó khăn khi thực hiện chuyển đổi số ở ngành này, như: Khối lượng công việc trong thời gian đầu số hóa tăng rất nhanh gây áp lực lớn cho công tác quản trị doanh nghiệp; nếu chọn bước đi không hợp lý, chi phí tăng cao có thể khiến doanh nghiệp lâm vào khủng hoảng tài chính; phải cân não lựa chọn phương án mua công nghệ mới hoàn toàn hay cải tạo công nghệ cũ trong điều kiện doanh nghiệp còn hạn chế về nguồn tài chính và nhân lực...

Nhưng khó khăn nhất vẫn là chọn bước đi thế nào để không làm thay đổi mô hình tổ chức của tập đoàn, vì động đến vấn đề này sẽ phải trình cấp có thẩm quyền phê duyệt mô hình tổ chức mới, có nguy cơ bị “ngâm” vô thời hạn.

Theo góc nhìn của chuyên gia kinh tế Trương Văn Phước, chuyển đổi số và kinh tế số không đơn thuần chỉ là bài toán công nghệ mà quan trọng nhất là thể chế do liên quan đến cái mới.

Yêu cầu đặt ra là phải tháo gỡ vướng mắc và hoàn thiện thể chế; đầu tư công nghệ, hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin; huy động được các nguồn lực tài chính, đào tạo, thu hút được nguồn nhân lực… Quá trình này nếu không có thể chế đi trước mở đường rất có thể dẫn đến thất bại
TS Trương Văn Phước

Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030, Đảng ta đưa ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm tỷ trọng khoảng 20% GDP, đến năm 2030 đạt khoảng 30% GDP.

“Mở đường” tiến vào kỷ nguyên số, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52/NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/CT- TTg về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược quốc gia phát triển Chính phủ số và Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số, xã hội số, đưa Việt Nam trở thành nước đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương về chuyển đổi tư duy hướng tới kinh tế số.

Và để hoàn thành những mục tiêu tham vọng nêu trên, các điều kiện, giải pháp thực hiện và phát triển kinh tế số đã được chuẩn bị từ sớm, nhưng quan trọng hơn là công tác tổ chức triển khai và sự chuẩn bị sẵn sàng của các bên liên quan.

Ngày xuất bản: 14/4/2023
Chỉ đạo thực hiện: THU HÀ
Nội dung: THU HÀ - VIỆT HẢI
Video: ĐỖ BẢO - MINH CHÂU - TRẦN SƠN
Ảnh: TRẦN HẢI, quochoi.vn
Trình bày: PHƯƠNG NAM