
Đối ngoại Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Bài tham luận này sẽ phân tích sâu hơn về cục diện thế giới và khu vực, dự báo một số kịch bản của quan hệ quốc tế, đồng thời đánh giá cơ hội và thách thức mà Việt Nam đang đối mặt để từ đó tìm ra những hướng đi chiến lược cho đối ngoại Việt Nam trong kỷ nguyên mới của dân tộc.
Thứ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Minh Vũ
1. Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại[1] với nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tại nhiều khu vực và nhiều nước.
Xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng, các hoạt động can thiệp, lật đổ, bất tuân dân sự, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới những hình thức mới, gay gắt hơn.
Các em nhỏ tại Kilifi County, Kenya. (Ảnh: THX/TTXVN)
Các em nhỏ tại Kilifi County, Kenya. (Ảnh: THX/TTXVN)
Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, v.v... diễn biến nghiêm trọng. Chủ nghĩa dân tuý, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng gia tăng mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Xu hướng tập hợp lực lượng, liên kết - đấu tranh vì lợi ích quốc gia - dân tộc diễn ra gay gắt, đặt các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ, trước nhiều sức ép, đặc biệt dưới tác động của cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn. Cùng với xu thế đa cực hóa và dân chủ hóa quan hệ quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, ngăn ngừa những hành vi áp đặt và can thiệp của các thế lực cường quyền; các nước có cơ hội để triển khai hiệu quả chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát triển.
2. So với những năm 1970-1980, khi các nền kinh tế mới công nghiệp hóa (NIEs: Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc)) thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bối cảnh quốc tế ngày nay đặt ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là:
(i) Môi trường cạnh tranh địa chiến lược phức tạp, bất ổn, bất định hơn so với sự ổn định tương đối của những năm 1970-1980. Các nước NIEs khi đó phát triển dưới sự bảo trợ của Mỹ, ít chịu ảnh hưởng của cục diện hai cực so với sự phức tạp của các tập hợp lực lượng và liên kết kinh tế đa dạng toàn cầu hiện nay.
(ii) Những năm 1980, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá được đón nhận hồ hởi, tích cực, tạo điều kiện để các NIEs khai thác tối đa lợi ích từ hội nhập và đầu tư, thương mại quốc tế. Hiện nay, các nước đang phát triển đối mặt với nhiều rủi ro từ các biện pháp phân tách, bảo hộ thương mại của các nước lớn.
Ngày nay, công nghệ, tri thức trở thành động lực chính thúc đẩy phát triển, thay thế vốn, nhân công, tài nguyên.
(iii) Ngày nay, công nghệ, tri thức trở thành động lực chính thúc đẩy phát triển, thay thế vốn, nhân công, tài nguyên. Tuy nhiên, công nghệ, tri thức không dễ tiếp cận và đòi hỏi quá trình tích luỹ lâu dài của mỗi quốc gia. Do đó, các nước đang phát triển rất khó có thể sở hữu, khai thác thế mạnh này.
(iv) Các mô hình phát triển của các nước đi trước, kể cả NIEs rất khó để áp dụng trong bối cảnh hiện nay. Đơn cử, các mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, hướng xuất khẩu hoặc hỗn hợp vừa hướng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu đều không còn phù hợp. Do đó, việc xác định đúng mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi quốc gia là bài toán không dễ dàng.
Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng có một số điểm thuận cho các nước đang phát triển như Việt Nam:
(i) Các nước, nhất là các nước đang phát triển có thể tiếp cận nguồn vốn dễ dàng, hơn đa chiều hơn. Bên cạnh các định chế tài chính truyền thống như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…, các nước có thể vay vốn từ Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), Ngân hàng phát triển mới (NDB)….
(ii) Khác với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 tạo cơ hội tương đối “bình đẳng hơn” cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển.
(iii) Cùng với sự vươn lên của NIEs và sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc, trung tâm tăng trưởng, đổi mới sáng tạo thế giới có xu hướng dịch chuyển về châu Á. Đây là cơ hội để các nước trong khu vực tăng cường hợp tác phát triển.
(iv) Các thể chế đa phương, liên kết kinh tế đa chiều, đa dạng hơn giúp các nước hội nhập sâu rộng hơn, khai thác hiệu quả các lợi ích của toàn cầu hoá, khu vực hoá và lợi thế so sánh quốc gia. Mỹ và EU mở cửa thị trường cho hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển.
Từ kinh nghiệm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước NIEs (cả thành công và chưa thành công), có thể rút ra một số bài học tham khảo:
(i) Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách công nghiệp hóa và điều hành kinh tế vĩ mô. Nhà nước không chỉ phát huy nội lực mà còn khai thác tốt các yếu tố ngoại lực tạo tăng trưởng kinh tế cao.
Coi trọng giáo dục và đào tạo.
Coi trọng giáo dục và đào tạo.
(ii) Việc lựa chọn mô hình công nghiệp hóa có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Đồng thời, việc chọn thời điểm để điều chỉnh chiến lược phát triển có ý nghĩa rất quan trọng.
(iii) Rất coi trọng phát triển giáo dục, khoa học công nghệ.
(iv) Định hướng phát triển bền vững, hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
(v) Xác định lĩnh vực/ngành mũi nhọn để mở cửa thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài.
3. Thời gian 5-10 năm tới là là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới. Đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt được mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc để đạt các kế hoạch đề ra mục tiêu 100 năm thành lập nước vào năm 2045. Giai đoạn này có 6 đặc điểm, xu hướng lớn sau:
Thứ nhất, kinh tế thế giới duy trì đà phục hồi sau đại dịch Covid-19 song tăng trưởng có xu hướng chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn khó lường. Chiến tranh thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt với nhiều hình thức đa dạng. Các nước tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chú trọng đổi mới sáng tạo để vượt qua thách thức, phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, Cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế đổi mới công nghệ diễn ra nhanh, đặt ra nguy cơ lớn về tụt hậu song cũng là điều kiện cho các nước đi sau thực hiện các bước phát triển rút ngắn qua việc tận dụng những thành quả phát triển của nhân loại. Tuy không có ưu thế về công nghệ, vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh nghiệm quản lý và điều hành nền kinh tế, v.v. như các nước phát triển, nhưng nhờ hội nhập và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các nước đang phát triển có thể huy động và phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực, tiếp nhận kiến thức, công nghệ và kinh nghiệm quốc tế, để thực hiện “đi tắt, đón đầu”.
Thứ ba, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vẫn tiếp diễn, nhưng có những điểm khác các giai đoạn trước cả về nội dung và hình thức. Bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hoá gắn liền với chủ nghĩa tự do mới làm gia tăng bất bình đẳng xã hội; xuất hiện xu hướng co cụm, bảo hộ thương mại ngay cả ở những nền kinh tế lớn, góp phần làm suy yếu tiến trình đa phương. Trong bối cảnh đó, nhiều nước hướng tới “toàn cầu hóa bao trùm” để định hình những chuẩn mực, quy tắc mới về quản trị toàn cầu với yêu cầu phải quan tâm hơn tới những người bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển và hội nhập.
Thứ tư, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục phát triển năng động có vị trí địa kinh tế-chính trị ngày càng quan trọng. Đây cũng là địa bàn cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các cường quốc, thể hiện qua những sáng kiến và kế hoạch lớn (IPS, BRI…) buộc các nước vừa và nhỏ phải lựa chọn đối sách tham gia. ASEAN được các nước lớn coi trọng, tiếp tục phát huy vai trò trung tâm trong tăng trưởng kinh tế, bảo đảm môi trường hòa bình và an ninh khu vực. Tuy nhiên, sự tranh thủ lôi kéo, gây sức ép và can thiệp của các nước lớn, cùng với những tính toán lợi ích riêng của một số nước thành viên, là yếu tố cản trở ASEAN có tiếng nói chung trong một số vấn đề khu vực, tác động không nhỏ đến tính thống nhất của tổ chức này.
Thứ năm, các vấn đề an ninh phi truyền thống tác động sâu rộng đối với an ninh, phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển yêu cầu nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. An ninh lượng thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục là chủ đề nổi trội tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực.
Thứ sáu, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước lớn, đặc biệt giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ tác động rất lớn đến môi trường an ninh, kinh tế. Có thể dự báo 3 kịch bản lớn cho quan hệ Mỹ-Trung trong 5-10 năm tới như sau:
Đây là kịch bản có khả năng xảy ra cao nhất, theo đó Mỹ và Trung Quốc cạnh tranh toàn diện hơn, từng bước buộc các nước phải chọn bên hoặc đối mặt với nguy cơ bị cô lập về kinh tế và công nghệ. Thương mại toàn cầu có thể sẽ phân tách theo khu vực, hình thành các chuỗi cung ứng riêng biệt, hệ thống tiêu chuẩn công nghệ và tài chính song song giữa hai khối.
Kịch bản có xác suất xảy ra thấp, là khả năng đồng thời nhiều cuộc khủng hoảng lớn ở trong và ngoài khu vực. Tình huống xấu nhất có thể bao gồm xung đột ở eo biển Đài Loan (Trung Quốc), thiên tai nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, đứt gãy công nghệ hoặc suy thoái toàn cầu. Những cú sốc này có thể tạo hiệu ứng dây chuyền, làm sụp đổ các cấu trúc an ninh khu vực, gây gián đoạn trật tự kinh tế toàn cầu và làm tê liệt các thể chế quốc tế.
Là cạnh tranh giữa các cường quốc dù vẫn gay gắt nhưng được kiểm soát và tập trung chủ yếu vào lĩnh vực kinh tế; cả Mỹ và Trung Quốc đều thừa nhận và tôn trọng các lợi ích chính đáng và cốt lõi của đối phương. Các quốc gia tầm trung đóng vai trò tích cực trong việc duy trì ổn định khu vực, tạo thêm không gian cho các nước trong việc đa dạng hóa quan hệ đối tác.
4. Để vươn mình thành công, đạt hai mục tiêu 100 năm vào năm 2030 và năm 2045, Việt Nam cần có các điều kiện tiên quyết sau:
Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; duy trì quan hệ tốt đẹp, bền vững, lâu dài với các nước lớn là yêu cầu tối quan trọng.
Trong bối cảnh các nước lớn, nhất là Trung Quốc, Mỹ là các đối tác kinh tế tối quan trọng với Việt Nam, việc duy trì lòng tin chính trị, lòng tin các nhà đầu tư, lòng tin thị trường với các nước lớn trong khi giảm thiểu các tác động bất lợi từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước này là nhiệm vụ đối ngoại quan trọng hàng đầu.
Môi trường hoà bình, ổn định của khu vực cũng sẽ giúp Việt Nam tranh thủ các cơ hội hợp tác kinh tế, công nghệ và đào tạo nhân lực với các đối tác chiến lược khác.
Đạt mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, lý tưởng là hai con số trong một khoảng thời gian dài để bắt kịp các nền kinh tế phát triển trong khu vực.
Mục tiêu này đòi hỏi phải giải phóng được các động lực tăng trưởng của nền kinh tế, cải thiện mạnh mẽ năng suất lao động, nâng cao giá trị gia tăng trong các ngành sản xuất và dịch vụ, và thúc đẩy phát triển bền vững. Singapore là ví dụ tiêu biểu về một quốc gia có khả năng phát triển kinh tế nhanh chóng nhờ tập trung vào công nghệ và dịch vụ tài chính, đồng thời duy trì mức tăng trưởng bền vững.
Hoạt động nghiên cứu, thực hành của giảng viên, sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh minh hoạ: QUỐC TOẢN)
Hoạt động nghiên cứu, thực hành của giảng viên, sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh minh hoạ: QUỐC TOẢN)
Tìm được các động lực và mũi nhọn tăng trưởng mới, làm nền tảng sức mạnh kinh tế trong các lĩnh vực khoa học công nghệ mới, như công nghệ thông tin, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, và khai phóng năng lực đổi mới sáng tạo.
Theo đó, phát triển nền tảng sức mạnh khoa học công nghệ và giáo dục, đào tạo cần là chìa khóa để nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao trong tương lai. Một điển hình là Hàn Quốc, quốc gia từng có xuất phát điểm thấp nhưng nhờ đầu tư vào giáo dục, đặc biệt là STEM, và hỗ trợ các ngành công nghệ cao, đã vươn lên trở thành một cường quốc công nghệ.
Nâng cao năng lực quản trị quốc gia và cải thiện chất lượng chính sách.
Một nền quản trị hiệu quả là yếu tố quyết định giúp tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội. Để cải thiện năng lực quản trị quốc gia, Việt Nam cần tiếp tục cải cách hành chính, giảm bớt thủ tục phức tạp và tập trung tháo gỡ các “nút thắt thể chế”. Singapore và Nhật Bản là những thí dụ tiêu biểu về quản trị quốc gia hiệu quả, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh và đầu tư, đồng thời cải thiện năng suất lao động.
Tăng cường nội lực, năng lực cạnh tranh và năng suất lao động thông qua việc cải thiện năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế trong nước.
Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ để các doanh nghiệp này có thể vươn ra cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đồng thời, cần nâng cao năng suất lao động thông qua đào tạo, tăng cường đầu tư vào công nghệ gia tăng hiệu quả sản xuất, từ đó nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.
5. Dân tộc Việt Nam đang bước kỷ nguyên mới với thế và lực mới tích lũy qua gần 40 năm đổi mới với nhiều thành tựu to lớn và vĩ đại. Ngày nay, Việt Nam không chỉ có quan hệ ngoại giao song phương rộng mở với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó có 32 quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược; ngoại giao đa phương Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ, không chỉ khẳng định vị thế là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế mà đóng góp tích cực cho các vấn đề toàn cầu và có các bước đi chủ động định hình môi trường đối ngoại của đất nước.
Về kinh tế, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới, với các trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới; đứng vững vàng trong 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới, với các trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới; đứng vững vàng trong 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Thành tựu của 40 năm đổi mới đã giúp Việt Nam có sức hấp dẫn của một quốc gia có nền chính trị ổn định, một thị trường với gần 100 triệu dân, tăng trưởng ổn định ở mức cao hàng đầu khu vực, cao hơn nhiều so với mức trung bình của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và của thế giới nói chung. Việt Nam đang có cơ cấu dân số vàng, với lao động có mặt bằng chất lượng cao song chưa quá đắt đỏ so với nhiều thị trường khác trên thế giới.
Việt Nam được biết đến là quốc gia có tiềm năng lớn về điện gió ngoài khơi, trữ lượng cao về khoảng sản chiến lược, đầu tư sớm cho các ngành mới nổi như bán dẫn. Việt Nam còn được biết đến là một nền kinh tế với năng lực đổi mới, sáng tạo cao trong khu vực; phù hợp với xu thế chuyển đổi số, và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay.
Tuy nhiên, còn không ít trở lực quá trình vươn mình dân tộc. Nền kinh tế quốc dân có xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân đầu người chưa cao; còn phải tập trung nguồn lực cho nhiều vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách nên chưa nguồn lực cho tăng trưởng chưa phải là dồi dào. Hơn thế nữa, bộ máy thể chế còn chồng chéo, cồng kềnh, nhiều mặt còn trì trệ, nhiều điểm nghẽn, trong nhiều trường hợp chưa tận dụng, khai phóng hiệu quả tiềm lực phát triển ở cả trong và ngoài nước. Trong khi đó, đất nước còn đối mặt với nhiều thách thức an ninh, cả truyền thống và phi truyền thống.
"Hành trang quá khứ đang đưa dân tộc Việt Nam đứng trước những cơ hội lớn để thực hiện các mục tiêu 100 năm."
6. Trong bối cảnh tình hình thế giới đang có những biến chuyển nhanh chóng và sâu sắc, hành trang quá khứ đang đưa dân tộc Việt Nam đứng trước những cơ hội lớn để thực hiện các mục tiêu 100 năm. Một số cơ hội nổi bật là:
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành trung tâm kinh tế, chính trị thế giới, thu hút sự quan tâm, hiện diện và nguồn lực hợp tác của nhiều quốc gia trên thế giới, trở thành động lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Là quốc gia Đông Nam Á, cầu nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung đang có vị thế và điều kiện địa chính trị trung tâm, thuận lợi để vừa tranh thủ các nguồn lực cho hợp tác và phát triển, vừa tạo ra các đan xen lợi ích cần thiết cho việc duy trì môi trường hoà bình, ổn định và thúc đẩy quan hệ với các đối tác lớn trong và ngoài khu vực.
Sản xuất tại Khu công nghiệp sinh thái DEEP-C Hải Phòng (Khu kinh tế Ðình Vũ-Cát Hải).
Sản xuất tại Khu công nghiệp sinh thái DEEP-C Hải Phòng (Khu kinh tế Ðình Vũ-Cát Hải).
Chuyển hóa các cơ hội do CMCN 4.0 và các xu hướng mới của kinh tế thế giới tạo động lực cho các lĩnh vực kinh tế năng động mới như thương mại điện tử, công nghệ tài chính (fintech), ngân hàng số, blockchain… Tận dụng sự chuyển dịch các chuỗi cung để thu hút đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghiệp công nghệ cao như điện tử - bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học…; đưa Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất công nghệ cao mới tại khu vực.
Tận dụng lợi thế từ các FTA, như CPTPP, RCEP, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA)… để mở rộng và đa dạng hóa thị trường toàn cầu; tranh thủ những ngành công nghệ có thể đem lại hiệu quả, chất lượng cao; phát triển công nghiệp phụ trợ; thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao chất lượng nền kinh tế. Tận dụng tiềm năng về năng lượng gió và mặt trời để giảm bớt sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, đảm bảo an ninh năng lượng và đáp ứng các cam kết về biến đổi khí hậu.
Nâng cao vị thế quốc tế và khu vực: Việt Nam có cơ hội khẳng định vị thế quốc gia, đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới. Việt Nam đã tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế và giữ vai trò quan trọng trong các tổ chức như Liên hợp quốc, APEC, ASEAN… Ngoài ra, Việt Nam có thể đóng góp vào sự hình thành và phát triển của các cơ chế đa phương mới, giúp xây dựng luật lệ và các quy định cho các vấn đề quan trọng đối với nhân loại về kinh tế số, kinh tế xanh, thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs)…
Việt Nam tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Việt Nam tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
7. Bên cạnh các thuận lợi, Việt Nam cũng đứng trước không ít thách thức từ các biến chuyển của cục diện, tình hình thế giới. Một số thách thức chính là:
Thách thức tụt hậu xa hơn trong hội nhập kinh tế: Mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao nhưng Việt Nam vẫn đối diện với nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khó tiệm cận với các nước phát triển; năng suất lao động giảm dần, thiếu hụt lao động có kỹ năng cao. Cơ sở hạ tầng công nghệ còn hạn chế, gặp nhiều thách thức về an ninh mang và bảo mật dữ liệu; thủ tục hành chính còn phức tạp, tình trạng tham nhũng và lãng phí còn dai dẳng.
Áp lực từ các vấn đề an ninh và địa chính trị: Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các xung đột và căng thẳng địa chính trị quốc tế gây rủi ro đối với an ninh và ổn định của Việt Nam. Các tranh chấp lãnh thổ và mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia như chiến sự tại Trung Đông, chiến sự giữa Ukraine và Nga, căng thẳng Triều Tiên, vấn đề Đài Loan (Trung Quốc)… đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách đối ngoại khôn khéo, linh hoạt. Việt Nam cũng đứng trước những thách thức lớn hơn trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông, duy trì hợp tác và bảo vệ sông Mê Công. Các thách thức an ninh phi truyền thống như môi trường, khí hậu, an ninh mạng, an ninh năng lượng… ngày càng gia tăng đối với Việt Nam.
Việt Nam đang có vị trí cao trong chuỗi cung toàn cầu ở một số ngành như giầy dép, may mặc, điện tử nhưng đứng trước sức ép lớn để giữ vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh các công ty đa quốc gia chuyển dịch sản xuất để tránh rủi ro địa chính trị.
Môi trường cạnh tranh kinh tế quyết liệt và rủi ro chịu tác động từ bên ngoài: Nhiều quốc gia có gần trình độ phát triển với Việt Nam như Thái Lan, Indonesia, Philippines, Bangladesh, Mexico… đang nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển các ngành công nghiệp. Việt Nam đang có vị trí cao trong chuỗi cung toàn cầu ở một số ngành như giầy dép, may mặc, điện tử nhưng đứng trước sức ép lớn để giữ vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh các công ty đa quốc gia chuyển dịch sản xuất để tránh rủi ro địa chính trị.
Việt Nam cũng gặp khó khăn trong việc nâng cao vị trí trong các chuỗi cung quan trọng tương lai khác như chuỗi cung về bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, khoáng sản thiết yếu... Ngoài ra, do độ mở cao của nền kinh tế, Việt Nam dễ bị tác động bởi các biến động của thị trường toàn cầu, các rủi ro đứt gãy chuỗi cung hoặc suy thoái kinh tế và các chính sách thương mại của các nước và trung tâm kinh tế lớn.
8. Về tổng thể, đường lối đối ngoại đúng đắn của thời kỳ Đổi mới đã được phát triển qua các kỳ đại hội Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao của dân tộc. Song với chuyển biến to lớn trong tình hình thế giới và khu vực với cơ hội và thách thức đan xen hiện nay, với nền tảng là những thành tựu vĩ đại của 40 năm Đổi mới và tâm thế của một dân tộc đang khát khao vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu, đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới cần có những bước phát triển mạnh mẽ mới để đóng góp mạnh mẽ hơn cho sự phát triển và vươn mình của dân tộc.
Trong khuôn khổ Hội thảo khoa học này, bài tham luận xin gợi mở 5 định hướng cho đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới như sau:
Thứ nhất, cần có sự đổi mới tư duy về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển và an ninh. Với nền tảng là những thành tựu vĩ đại và thực tiễn của 40 năm Đổi mới, trong đó có cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi nhất từ trước đến nay, chúng ta có thể tự tin về khả năng bảo đảm an ninh đối ngoại của đất nước. Trong kỷ nguyên mới, đối ngoại vẫn cần góp phần bảo đảm vững chắc môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, nhưng đồng thời phát triển cần được xem làm mục tiêu ưu tiên và cũng chính là điều kiện và tiền đề để bảo đảm an ninh của đất nước.
Thứ hai, đặc biệt coi trọng quan hệ với các nước lớn và xử lý khôn khéo hài hòa quan hệ với các nước lớn, nhất là Trung Quốc, Mỹ, Nga và các đối tác lớn nhiều tiềm năng khác như Nhật Bản, Ấn Độ, EU…. Theo đó, cần xây dựng chiến lược quan hệ với các nước lớn để bảo đảm vừa xử lý linh hoạt, cân bằng tích cực trong quan hệ giữa các nước lớn, hoá giải từ sớm, từ xa các tác động bất lợi từ cạnh tranh nước lớn, kiếm soát hiệu quả các điểm nóng, đồng thời tranh thủ khai thác tiềm lực kinh tế, tạo đột phát trong quan hệ kinh tế của ta với các nước lớn, nhất là với các nước còn nhiều dư địa và tiềm năng trong hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ…; sẵn sàng đóng vai trò cầu nối đối thoại giữa các cường quốc, đặc biệt trong quan hệ Mỹ-Trung và Mỹ-Nga.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn Tương lai ASEAN 2024. (Ảnh: TRẦN HẢI)
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn Tương lai ASEAN 2024. (Ảnh: TRẦN HẢI)
Thứ ba, tiếp tục củng cố phên giậu an ninh và phát triển liền kề thông qua các mối quan hệ song phương và trong khuôn khổ ASEAN với các nước láng giềng khu vực, đồng thời cần thực sự vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong ASEAN, nhất là trong các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế và phát triển, phát huy vị thế của một nền kinh tế mở có mức độ hội nhập sâu rộng với mạng lưới gần 20 FTA của Việt Nam để tăng cường hội nhập toàn diện và sâu rộng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN cũng như giữa ASEAN với mạng lưới các đối tác bên ngoài. Đi đầu trong ASEAN về thúc đẩy kết nối, nhất là kết nối cơ sở hạ tầng chiến lược, kết nối số, năng lượng và củng cố các chuỗi cung ứng khu vực.
Đồng thời chủ động đề xuất và thúc đẩy các sáng kiến để giải quyết các thách thức chung của khu vực như vấn đề Myanmar, biến đổi khí hậu, phát triển tiểu vùng, phát triển bền vững. Phát huy kinh nghiệm và uy tín từ việc đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN và thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc để nâng tầm đóng góp trong các cơ chế đa phương khu vực.
Ảnh: Tạp chí Người Hà Nội
Ảnh: Tạp chí Người Hà Nội
Thứ tư, phát huy tổng hợp sức mạnh của ngoại giao kinh tế với các nhánh ngoại giao chuyên biệt khác như ngoại giao văn hoá, ngoại giao công nghệ, ngoại giao y tế, môi trường... Trong đó, ngoại giao kinh tế phải khơi dậy động lực bên trong, mở ra triển vọng phát triển mới, góp phần tạo bước nhảy vọt về tăng tưởng kinh tế bền vững, duy trì sự phát triển lành mạnh, ổn định của nền kinh tế toàn cầu và ứng phó với các thách thức toàn cầu mới (biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, tài nguyên, môi trường, an ninh mạng, thiên tai, dịch bệnh…); kết hợp nhuần nhuyễn văn hoá với ngoại giao, văn hoá trong ngoại giao, làm cho mỗi hoạt động đối ngoại không chỉ có nội dung văn hoá sâu sắc, mà còn trở thành một hoạt động văn hoá; văn hóa vừa là phương tiện, vừa là phương châm, vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu của đối ngoại; không ngừng nhân sức mạnh mềm quốc gia lên tầm cao mới.
Thứ năm, đổi mới cơ cấu, tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại ngang tầm nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới. Trong đó cần tập trung tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực gắn với các cơ chế, chính sách để cán bộ yên tâm cống hiến. Đồng thời tăng cường đào tạo và tái đào tạo để cán bộ đối ngoại vừa hồng, vừa chuyên, ở trong nước phải là chuyên gia, là “từ điển” đối với lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách, khi ra nước ngoài phải là chuyên gia về Việt Nam.
Cán bộ đối ngoại
dù vị trí nào cũng là đại diện
cho dân tộc, cho Đảng và Nhà nước,
cho văn hoá, khí phách và cốt cách
con người Việt Nam.
Cán bộ đối ngoại dù vị trí nào cũng là đại diện cho dân tộc, cho Đảng và Nhà nước, cho văn hoá, khí phách và cốt cách con người Việt Nam, biết đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân là trên hết, một lòng một dạ phục vụ nhân dân; là những con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiêu biểu nhất, văn hoá nhất, thông tuệ nhất về luật pháp quốc tế, truyền thống, phong tục, văn hoá, luật pháp sở tại, nguyên tắc đối ngoại và hợp tác quốc tế như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Ngày xuất bản:
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN, Tạp chí Người Hà Nội