Những năm gần đây, việc xin chữ đầu xuân đã được phục hồi và khá phổ biến, như một mỹ tục của người Việt. Hình ảnh các ông đồ tân thời ngồi cho chữ trong không gian mùa xuân gợi lại phong vị đẹp ngày xưa. Câu hỏi đặt ra là, ở thời đại công nghệ số phát triển như hiện nay, có thể nhờ trí tuệ nhân tạo (AI) “cho chữ” được không?

Chúng tôi tìm đến Nhà nghiên cứu văn hóa truyền thống ứng dụng Nguyễn Quang Minh để trò chuyện về đề tài thú vị này.

Phóng viên: Xin ông cho biết, tục xin và cho chữ đầu xuân có từ bao giờ và diễn ra như thế nào?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Chúng ta chưa thể khẳng định ở Việt Nam tục xin chữ xuất hiện từ thời điểm nào. Nếu lấy mốc năm Ất Mão 1075, vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta để tuyển chọn nhân tài thì tại thời điểm đó tạm coi chữ viết không chỉ là phương tiện trao đổi, truyền tải thông tin mà còn tác động đến hành động của con người. Cấu trúc của âm thanh hay “câu lệnh” của chữ viết “tượng hình” toàn bộ hành vi con người, và khi đó người ta lờ mờ thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa âm thanh và chữ viết.

Nếu chữ trong ngôn ngữ phương Tây chủ yếu dùng để ký âm thì chữ Nho lại luôn gắn với nghĩa, người ta gọi đó là chữ tượng hình. Trong một chữ, chứa đựng nhiều nghĩa, thí dụ chữ Đinh trong tiếng Hán là cái đinh ba, nhưng còn có nghĩa là người, trực xung, nhiệt (màu đỏ), là phương vị 180 độ, là con gái thứ… Chỉ một chữ trong các hoàn cảnh khác nhau được hiểu theo nghĩa khác nhau. Chữ với người Á Đông bao gồm cả nội dung thông tin và phần hồn của thông tin, tức là xem chữ có thể đoán biết được con người và thế giới.

Ảnh: Trung Hưng

Ảnh: Trung Hưng

Người Á Đông quan niệm thế giới hình thành bởi 5 lực lượng vật chất, gọi là ngũ hành. Thí dụ, cách buộc lạt bánh chưng, người xưa dùng 4 chiếc lạt chia thành cửu cung, như vậy trên vỏ một chiếc bánh đã chứa đựng nền học thuật của người Á Đông. Một ngày bắt đầu từ tiếng gà gáy, kết thúc khi mặt trời lặn. Người ta phát hiện vào thời khắc đầu tiên ánh sáng xuất hiện, có một loài vật bị ngứa cổ họng, đó là con gà trống. Nên buổi sáng sớm chúng gáy nhiều lần, thậm chí tiếng gáy của con gà được thi vị hóa thành “gọi mặt trời thức dậy”.

Sau này khoa học xác định quả thực có một hormone tên là oxytocin kích thích hành vi gáy liên quan tới ánh sáng. Tuy nhiên, phải trải qua thời gian lâu lắm, người xưa mới tìm ra thuộc tính của ánh sáng liên quan đến ngũ hành và ngũ vị. Vị Tây là vị cay, liên quan đến hormone của con gà và ánh sáng; phải chăng vì thế phân gà bón vào cây ớt khiến quả ớt cay hơn bón bằng các loại phân khác. Như vậy, để tìm ra một thông tin như vậy, con người phải mất hàng nghìn năm quan sát các vận động tự nhiên, ghi chép, chiêm nghiệm, tổng hợp qua nhiều thời kỳ.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận ra tính vĩ đại của tục xin chữ, đó không thuần túy là thú chơi hay xin cầu may mắn, tài lộc. Về mặt bản chất đây là quá trình tổng kết thực tiễn sống và tiến trình phát triển tri thức lâu dài của nhân loại.

Tôi nhận ra tính vĩ đại của tục xin chữ, đó không thuần túy là thú chơi hay xin cầu may mắn, tài lộc.

Phóng viên: Thưa ông, ngày xưa người xin chữ là ai? Cho chữ là ai? Việc xin và cho chữ diễn ra trong hoàn cảnh nào?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Thông thường khi kết thúc một năm, dịp đầu năm mới người ta thường tìm đến các ông quan, các chức sắc trong xã hội, đặc biệt là các nhà nho, các thầy học cao biết rộng xin chữ để tìm định hướng hay may mắn cho mình. Người đến xin chữ đa phần là người lớn tuổi và trẻ em. Trẻ em tìm sự phát triển, còn người già tìm sự bình an, tốt lành của đạo trời đất mang lại cho con cháu.

Cách xin và cho chữ ngày xưa cũng không giống bây giờ. Người xin không xin cụ thể chữ gì. Người cho chữ sau khi quan sát, hỏi han, lắng nghe nguyện vọng của người xin, rồi quyết định cho chữ nào. Thí dụ, người cha có con sắp đi thi, đến xin chữ là có ý mong con gặp may mắn, thành công, đỗ đạt. Căn cứ vào ý của người xin, người cho sẽ viết chữ. Có khi người cho chỉ vẽ một ngôi sao, kèm theo một dấu phẩy là đã biểu trưng cho các kết quả thi cử rồi.

Phóng viên: Vậy giữa các ông quan và các thầy học cao, biết rộng có xin và cho chữ nhau không?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Một câu hỏi thú vị. Câu trả lời là: có. Đó chính là bản chất của thư pháp. Trước đây người ta vẫn cho rằng thư pháp là nghệ thuật viết chữ sao cho đẹp. Không hẳn như vậy, bởi thư pháp bắt nguồn từ những cuộc thi của các bậc túc nho, các bậc hiền triết. Qua nghệ thuật viết chữ, họ thể hiện tâm trạng, cảm xúc, đưa ra quan điểm, nhận thức về sự vận động của thời cuộc, của thế giới trong năm mới sẽ như thế nào. Hằng năm, họ gặp lại nhau, tổng kết một năm đã qua, căn cứ vào kết quả để tôn vinh nhau. Tuy đây chỉ là cuộc tôn vinh dân gian, nhưng với tôi đó là cuộc thi vĩ đại, để lại rất nhiều di sản văn hóa, tri thức mà sau này đời đời chúng ta được thừa hưởng và học hỏi.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh và Nhà thơ Hữu Việt trong cuộc trò chuyện đầu xuân.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh và Nhà thơ Hữu Việt trong cuộc trò chuyện đầu xuân.

Thư pháp về bản chất là cuộc thi trong dân gian, là những đấu pháp trong ngôn ngữ, trong tư tưởng, trong các bộ môn dự báo, nhưng là nền tảng cho rất nhiều chuyện khác. Thí dụ trong học thuyết vận khí, người ta xác định năm nào đó là “thái quá”, muốn diễn đạt cái “thái quá” ấy thì bằng chữ gì? Hay gặp năm “bất cập” thì người viết chữ hiểu cái “bất cập” ấy như thế nào? Hỏa, hay thổ, hay kim, hay thủy… tức là trong chữ thư pháp bao gồm rất nhiều thứ như mỹ thuật, âm nhạc, như ngũ cung, ngũ âm, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ xú… Tôi cho rằng người xưa đã từng đi trước các dự báo của khoa học hiện đại. Trong nét chữ của họ không chỉ chứa đựng mùi vị, âm thanh, màu sắc… mà còn mang cả hơi thở của thời cuộc.

Phóng viên: Như vậy người cho chữ ắt hẳn phải đạt tới tầm tư tưởng, hiểu biết và học thuật rất cao, điều đó có đúng không, thưa ông?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Chính xác. Ngày xưa không phải ai cũng có thể cho chữ, một người ngoài hội đủ các phẩm chất đề cập ở trên, còn phải có đạo đức, nhân cách mẫu mực. Một bức thư pháp hay một bức tranh chữ không còn là chữ nữa mà là tác phẩm nghệ thuật, và cao hơn, nó mang tính triết học thâm sâu.

Phóng viên: Ngày xưa người ta hay nói “xin chữ Thánh hiền”. “Thánh hiền” ở đây phải hiểu như thế nào, thưa ông?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Hai chữ “Thánh hiền” không phải nói đến thần thánh mà chỉ những người có đạo đức, uy danh và sự uyên bác. Về bản chất, người cho chữ phải hội tụ được phẩm chất “thánh hiền”, tức là tài giỏi, xuất chúng, mẫu mực thì mới được cho chữ. Một người có thể viết chữ rất đẹp, nhưng không đủ kiến thức, tư duy thì vẫn không thể cho chữ được.

Ảnh: Trung Hưng

Ảnh: Trung Hưng

Phóng viên: Nói về chữ Nho, có các lối viết: chân, lệ, hành, thảo,… Khi cho chữ thì người xưa thường viết lối chữ nào?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Lúc viết chữ, người cho chữ giống như một nhà khoa học, phải am hiểu đủ các bộ chữ. Mỗi bộ chữ sẽ tương ứng với giai tầng của người xin chữ. Chỉ cần xem bộ chữ ngày xuân, ta đã biết toàn bộ thân thế, sự nghiệp của người được cho chữ.

Phóng viên: Thưa ông, hiện nay AI ngày càng thâm nhập sâu sắc vào nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là giới trẻ và những người am hiểu công nghệ. “Xin chữ AI” có thể thực hiện được hay không? AI sẽ “can thiệp” vào đời sống văn hóa con người như thế nào?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Trước khi bàn về việc “xin chữ AI”, tôi muốn quay về xấp xỉ 2.000 năm trước, thời Tam quốc ở Trung Quốc. Tương truyền Gia Cát Lượng đã chế tạo ra “mộc ngưu lưu mã”, tức là trâu gỗ, ngựa máy để vận chuyển lương thực. Theo tôi, đây là tiền đề của robot ngày nay. Nhưng trâu gỗ ngựa máy ấy không thể thay ngựa Đích Lư đưa Lưu Bị vượt suối Đàn Khê. Vì bước đi của chúng đã được cấu trúc bởi hạn định kỹ thuật.

Ảnh: Trung Hưng

Ảnh: Trung Hưng

Tất nhiên con ngựa thật cũng có hạn định của nó, nhưng lúc đối diện với sinh tử, sức lực tăng lên bội phần so với bình thường, tạo ra khoảnh khắc xuất thần, phi thường như Đích Lư thì không cấu trúc nào có thể thay thế được. Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa con ngựa máy và con ngựa thật. Với loài vật đã thế, còn thực vật thì sao? Màu đỏ của cánh hoa sẽ khác với sơn đỏ, vì đỏ của cánh hoa là mầu đỏ sống, có sinh mệnh riêng; còn sơn đỏ chỉ là màu chết, là cảm xạ màu mà thôi.

Ta đã nói đến cảm xúc, tâm trạng, trí tuệ, tính sáng tạo… của người cho chữ, những điều mà trí tuệ nhân tạo không thể có được.

Quay trở lại với trí tuệ nhân tạo, trong từng trường hợp cụ thể ta dùng, nhưng dứt khoát ngựa máy không thể thay thế ngựa thật được. Với việc “xin chữ AI” cũng thế. Ở trên ta đã nói đến cảm xúc, tâm trạng, trí tuệ, tính sáng tạo… của người cho chữ, những điều mà trí tuệ nhân tạo không thể có được. Chúng ta không thể đưa ra hạn định để cài đặt, tổ hợp lại một sản phẩm chữ cho AI. Vì sao, bởi chữ - theo cách quan niệm chúng ta vừa trao đổi, lệ thuộc vào trình độ, cảm quan của người cho chữ. Và nó còn đặt trong không gian và thời gian của thời cuộc nào đó nữa.

Theo nguyên tắc, chữ Hán viết từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trái sang phải. Nếu một nhà lãnh đạo đến xin chữ, nhìn nét bút lông hời hợt, có nghĩa người cho chữ đánh giá thấp người xin chữ, người xin chữ chưa đủ tài, đức. Nhưng nếu nét bút chấm phá mạnh mẽ, đẩy từ gốc chữ ở trên xuống, đậm đặc, to khỏe… thì đó là người hiền tài, được đấng bề trên “cử” xuống thay trời trị dân. Ngoài ra, nếu những chấm phá, vết xước bên Thanh Long (tả) mạnh thì biết vận khí người xin chữ tốt, còn bên Bách Hổ (hữu) to lớn thì phải rất cẩn trọng vì năm nay sẽ gặp vận hạn. Người xưa tâm linh hóa tục xin chữ, bởi nó dự báo cho những diễn biến trong một năm của người xin chữ.

Tóm lại, với việc xin chữ, dùng AI tham khảo thì được, chứ thay thế con người thì không. Kinh nghiệm cho thấy, thông tin càng ít thì trí tưởng tượng càng phát triển. Phương tiện càng hữu hạn thì con người có thể đạt tới chân, thiện, mỹ càng nhanh so với khi có quá nhiều phương tiện. Vì vậy, hãy coi AI là phương tiện trong tiến trình cụ thể, bởi có thể ngay ngày mai cỗ máy ấy, trí tuệ nhân tạo ấy sẽ trở nên lạc hậu khi đặt trong một tiến trình mới. Chúng ta đã nhìn thấy nhiều sự lạc hậu mất đi để nhường chỗ cho những cái mang tính tất yếu, tiến bộ hơn. Từ thuở ban sơ, con người được gọi là một tiểu vũ trụ. Đã là tiểu vũ trụ thì nó bao trùm toàn bộ mọi thứ trong vũ trụ này, không gì thay thế được.

Phóng viên: Như vậy có thể thấy, con người tiềm ẩn những năng lực vô biên. AI dù có kỳ diệu thế nào cũng chỉ là công cụ cho con người mà thôi. Theo ông, năng lực của AI đến đâu và giới hạn của AI thế nào để chúng ta vận dụng nó hiệu quả nhất trong đời sống?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Có một số lo ngại về kết quả của các công trình khoa học, đặc biệt là AI. Nhưng cá nhân tôi đánh giá thì nhân loại đang vô cùng may mắn sống trong kỷ nguyên công nghệ hiện nay. Về mặt thực tế, cho đến nay có thể nói AI là công cụ hữu ích nhất trong tiến trình phát triển loài người. Nó có sức mạnh tới từng phút từng giây.

Tuy AI là tổ hợp những chắt lọc trí tuệ thông minh nhất của loài người cho đến thời điểm hiện tại; tất cả các công việc “cứng”, có công thức lập trình của con người, nó có thể hoàn toàn thay thế, nhưng các yếu tố “mềm” như tư duy, sự sáng tạo, cảm xúc thì chắc chắn AI không làm thay được. Căn cứ theo quy luật “động” và “tĩnh”, người xưa phân lập các cụm sự việc theo hai khái niệm này. Trí tuệ nhân tạo phát huy tích cực nhất và tốt nhất phần “động” còn phần “tĩnh” thì không.

Trí tuệ nhân tạo phát huy tích cực nhất và tốt nhất phần “động” còn phần “tĩnh” thì không.

Thí dụ trong y học: nếu dùng triệt để năng lực của AI sẽ tốt trong việc giải phẫu, nhưng cảm nhận qua ngón tay bắt mạch của một danh y, từ đó gia giảm thuốc trị bệnh, thì các công thức do AI đưa ra không những kém hiệu quả mà có khi còn để lại những hậu quả. Tóm lại, cách xem mạch bốc thuốc của lương y thì không máy móc nào thay thế được cả.

Phóng viên: Vậy chúng ta nên “chung sống” với AI như thế nào để tận dụng được tính ưu việt của nó, đồng thời vẫn phát huy được năng lực cảm xúc và sáng tạo của mình?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh: Cho dù thế nào thì AI cũng không thay thế được con người. Vì nó không có tử vi, tức là các thông tin về sinh mệnh vạn vật. Theo thuật ngữ của phật giáo, AI chỉ là một sinh linh vô vi. Cá nhân tôi đánh giá rằng, khoảng 20 năm nữa, trí tuệ nhân tạo sẽ được thay thế bằng những công trình khoa học khác tiên tiến hơn, có tính “mềm” đan vào. “Mềm” đây ý nói là có cảm xúc, suy nghĩ…

Tại sao lại 20 năm? Bởi tiểu vận 9 là biểu trưng cho mặt trời, cho lĩnh vực công nghệ, máy móc…, nên nó ở vị trí cao nhất. Sau tiểu vận 9, từ năm 2043 chúng ta bước vào chu kỳ mới, mỗi chu kỳ kéo dài 180 năm, gọi là tam nguyên 29, nhất bạch thủy tinh. Quan niệm của người Á Đông, trí tuệ nhân tạo ngũ hành thuộc hỏa, hỏa sẽ bị thủy chế ngự, mà thủy bắt đầu từ năm 2043.

Tôi nghĩ rằng, việc đưa ra giả thuyết là cần thiết, bởi tri thức của con người cần phải đưa ra được các dự báo. Con người là chủ thể của thế giới, nên chúng ta có quyền dự báo trên cơ sở phân tích khoa học các lý luận truyền thống “vạn vật hữu biến”, nghĩa là mọi vật không có gì bất biến cả. Dự báo để cho chúng ta tham khảo khi thực hiện cấu trúc các công trình khoa học, xem xét sự vận động xã hội, bởi nếu lệ thuộc quá nhiều vào một thứ, chúng ta sẽ phải trả giá.

Toàn nhân loại cho đến ngày hôm nay rất mừng rỡ và tự hào về AI bởi nó là một tiến bộ khoa học biểu trưng nhất cho trí tuệ loài người, nhưng nếu nhân loại không có dự báo cho riêng mình, gửi gắm vào nó tất cả thì sẽ phải trả giá trong tương lai.

Phóng viên: Xin cảm ơn ông về buổi trò chuyện này. Năm mới, xin chúc ông có thêm nhiều thành công trong nghiên cứu ứng dụng văn hóa truyền thống.

Ngày xuất bản: 31/1/2025
Chỉ đạo thực hiện: NGỌC THANH
Thực hiện phỏng vấn: HỮU VIỆT
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh: THÀNH ĐẠT