Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng sinh năm 1950. Trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bà là nữ phóng viên duy nhất có hơn 1.500 ngày đêm gắn bó, chiến đấu cùng cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tại chiến trường Quân khu V gian khó, ác liệt, cho đến ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.

Trở thành một người lính để viết về một người lính

Phóng viên: Vì sao bà quyết tâm vào chiến trường khi bố vừa mất, một mình mẹ đang gồng gánh nuôi 5 đứa em?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng:  Ngày 22/8/1967, bom Mỹ ném vào 140 phố Huế làm sập nhà 3 tầng, nhiều người chết trong đó có bố tôi. Bố mất, tôi vừa đi học, vừa cùng mẹ chăm sóc các em. 19 tuổi, tôi thuộc lứa thanh niên của thập niên 70, với tâm thế phải ra đi để đóng góp một cái gì đó cho cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước. Cùng đi với tôi có chị Bùi Thị Chiến, Trần Thị Thắng, Đỗ Thanh…

Phóng viên: Bạn bè bà kể lại,  lúc ấy do thị lực kém không đủ tiêu chuẩn ra chiến trường, phải ở lại điều trị nhưng bà vẫn trốn bệnh viện để đi B?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng: Tại trường huấn luyện đi B, tôi được phát hiện mắt bị viêm màng bồ đào, thủy tinh dịch bị đục, thị lực còn 2/10, phải ở lại điều trị. Tôi trốn viện lên đường. Ra đi biết khó khăn, biết khổ nhưng vẫn bảo nhau, phải đi về phía trước, khó khăn thế nào cũng không được quay lại. Chúng tôi bị sốt rét trên đường đi, phải nằm lăn lóc ở các binh trạm dọc đường nhưng cố gắng đi đến đích. Tôi và chị Chiến đi vào Quân khu V. Chị Thanh, chị Thắng đi vào miền Đông Nam Bộ.

Nhà văn Vũ Thị Hồng với đồng đội ở Chiến trường Quân Khu V..

Nhà văn Vũ Thị Hồng với đồng đội ở Chiến trường Quân Khu V..

Phóng viên: Bà có thể chia sẻ ký ức trong 1.500 ngày đêm chiến đấu của mình?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng: Suốt 50 năm qua, chưa ngày nào tôi quên những ký ức của mình... Thời gian sống với đơn vị Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 31, Sư đoàn 71 của Quân khu V,  có một ngày đặc biệt nhất mà tôi cũng đã viết thành truyện ngắn có tên “Đêm Sơn Lộc”.

Tiểu đoàn 9 là tiểu đoàn chủ công của Trung đoàn 31 được lệnh thọc sâu xuống đồng bằng, vùng thung lũng Quế Sơn. Hôm ấy, trinh sát trên báo xuống có một tiểu đoàn địch từ Quảng Trị đổ bộ, đóng trên đồi 50 Hòn Chiêng, Sơn Lộc. Trong đêm, tiểu đoàn của chúng tôi luồn sâu vào vùng địch, qua ấp chiến lược, qua các khu đồn của địch để đến được chân đồi 50.

Tôi không được đi, người ta bắt tôi ở lại phía sau. Đến gần sáng, khi đào hầm xong, chính trị viên tiểu đoàn phát hiện ra cô nhà báo vẫn bám đơn vị. Lúc ấy, chính trị viên chỉ biết giơ hai tay lên trời đầu hàng.

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng ôn lại kỷ niệm chiến trường qua những tấm hình cũ. (Ảnh: PHƯƠNG NAM)

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng ôn lại kỷ niệm chiến trường qua những tấm hình cũ. (Ảnh: PHƯƠNG NAM)

Đấy là một ngày chiến đấu vô cùng gian khổ. Nửa đêm, lính của tiểu đoàn địch ở trên đồi nắm được ý đồ của ta, lập tức, họ chia người chuồn xuống khu đồn, thôn ấp, lẫn vào nhà dân, ta không đánh được.

Các đơn vị của ta đều chạm địch, tứ bề thọ địch. Trên trời thì máy bay phản lực, trực thăng, phía dưới là phi pháo. Địch ở trên đồi nhìn quá rõ mục tiêu phía dưới. Chúng tôi đánh nhau với địch có khi chỉ cách nhau 100m, thậm chí 50m.

Địch tấn công tiểu đoàn bộ của chúng tôi đóng ở một dải đất giữa cánh đồng. Địch tập trung 3 trực thăng HU-1A bay vòng vòng quanh, bắn và cho lính tập kích vào.

Lúc ấy, tôi đang ở với thương binh dưới hầm. Khi nghe anh Dương Bá Khoa là chính trị viên Tiểu đoàn 9, hô to: “Địch đã đánh vào tiểu đoàn, tất cả xuất kích”. Tôi nhảy khỏi hầm, đứng ngay cạnh anh Nho – một chiến sĩ quân khí.

Tôi chỉ có khẩu súng ngắn K59. Anh Nho ấn đầu tôi xuống hào, rồi vụt đứng dậy lia một tràng đạn vào đám quân gần đó. Đạn địch lúc ấy bắn sát sạt hàng rào, ngay trên đầu. Một viên đạn trung liên đã trúng đầu anh. Máu chảy. Tôi lúng túng băng nhưng anh Nho bảo: “Đừng có băng cho em, em không còn sống được nữa”. Nói xong, anh ngật đầu, ra đi.

Tôi cầm khẩu AK của anh Nho theo đơn vị xuất kích. Chúng tôi xuất kích qua một cánh đồng khoảng 300m sang xóm bên cạnh. Địch bỏ hết cả súng ống, tháo chạy. Chúng tôi đuổi theo. Đội quân súng DKZ trên đồi nhìn thấy chúng tôi, cứ nhắm những bóng áo xanh xả đạn. Chúng tôi đuổi qua xóm thì được lệnh trở về. Khi trở về, ngoài khẩu AK báng xếp của anh Nho, tôi vác thêm khẩu AR15 và một cái ba lô xẹp lép của địch.

Nguyễn Thị Bắc Hà (Vũ Thị Hồng) trên trận địa Liệt Kiểm, Hiệp Đức, Quảng Nam năm 1972.

Nguyễn Thị Bắc Hà (Vũ Thị Hồng) trên trận địa Liệt Kiểm, Hiệp Đức, Quảng Nam năm 1972.

Lúc chạy qua cánh đồng, địch trên đồi nhìn thấy, nó bắn đằng trước, đằng sau túi bụi. Lúc ấy, tôi chẳng biết sợ là gì, cắm đầu chạy. Dép bật đi đường nào mất, chân tóe máu. Sau này tôi mới được biết anh em trinh sát qua máy PRC25 kể lại “bọn địch ở trên đồi bảo: “Bắn chết con Việt Cộng áo xanh kia đi!”. May mắn, tôi vẫn vượt qua cánh đồng về đơn vị. Vật lộn với địch cả ngày, rất nhiều chiến sĩ hy sinh.

Nửa đêm, chúng tôi được lệnh rút lên núi, cáng thương binh và chôn tử sĩ. Trên đường cáng thương lên đến gần núi, vượt qua đường 16, địch phục kích. Một nửa lên được núi. Những cáng thương đi sau lọt vòng vây địch. Chính trị viên Tiểu đoàn Dương Bá Khoa chiến đấu đến giây phút cuối cùng để bảo vệ thương binh. Nhưng chỉ được mấy cáng thương chạy thoát, toàn bộ bị địch bao vây.

Lúc đó tôi đang trên đường hành quân lên núi, Tiểu đoàn phó là anh An vừa bắn rơi trực thăng và bị thương. Y tá đi sau cứu thương binh hết rồi, anh ấy gọi tôi lên nhờ băng bó hộ. Tôi vừa lên thì đằng sau bị phục. Sau này, tôi cảm thấy không thể tha thứ cho mình đã bỏ anh em lại mà đi.

Đó là kỷ niệm tôi không thể nào quên. Từ khi vào chiến trường, tôi luôn khao khát được trở thành một người lính thực sự, một người lính cầm súng viết về một người lính. Nhưng thực sự, trải nghiệm ngày hôm đó vô cùng đau đớn.

Từ khi vào chiến trường, tôi luôn khao khát được trở thành một người lính thực sự, một người lính cầm súng viết về một người lính. Nhưng thực sự, trải nghiệm ngày hôm đó vô cùng đau đớn.

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng (bên trái) chia sẻ cùng nhà báo Hạnh Thủy.

 Phải sống như thế nào để viết

Phóng viên: Một nữ nhà báo giữa hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người lính là nam giới, không chỉ đối diện với đạn bom, cái chết, trong sinh hoạt hàng ngày, hẳn bà cũng phải đối diện với vô số những gian khổ thầm lặng khác?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng: Tôi nhớ có lần đi gùi gạo trong đêm mưa, đi hàng chục cây số, tôi đang đi giữa đoàn thì biết “mình bị… bệnh con gái”. Tôi lặng lẽ tụt lại phía sau đoàn.

Lúc lội qua vũng sình lầy, cảm nhận được cả mùi máu của cơ thể mình, rất khốn khổ. Nhưng đấy chưa phải là tất cả. Một mình giữa rất nhiều đàn ông, không dễ để sống. Cũng có ấm áp, yêu thương, cũng có ghen tức, bịa đặt, vu cáo, có nghiêm nghị, có chở che…

Một lần đi công tác, do bất cẩn trong lúc lau khẩu K59, súng cướp cò bắn làm nhà văn Nguyễn Bảo bị thương, may mắn là Nguyễn Bảo bị thương vào phần mềm, tôi bị kiểm điểm, đã đành, nhưng còn nhiều dị nghị. Rồi tất cả cũng vượt qua, chính là nhờ vào phẩm chất đẹp, trong sáng của những người lính xung quanh tôi. 

Vũ Thị Hồng và Bùi Thị Chiến.

Vũ Thị Hồng và Bùi Thị Chiến.

Phóng viên: Đi qua 1.500 ngày đêm như thế quả thật là không dễ dàng, điều gì thôi thúc bà sống và viết?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng: Tôi là nhà báo được cử xuống đơn vị nhưng sống gắn bó với anh em chiến sĩ như cùng một nhà, nhiều người về sau còn viết thư cho tôi, kể về tôi. Những chiến sĩ ở Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao Vàng – Sư đoàn có nhiệm vụ chống địch lấn chiếm ở Hoài Nhơn truyền tai nhau “Nhà báo ấy rất dũng cảm”. Khi địch ném bom, tôi không dám chúi đầu xuống hào, tôi ngẩng cao đầu vì nghĩ mình đi động viên bộ đội mà mình sợ hãi chúi xuống, làm sao động viên tinh thần chiến đấu được nữa.

Những năm tháng chiến đấu như thế giúp tôi trưởng thành. Đó là những tháng ngày tôi thấy mình sống có giá trị nhất. Đối mặt với cái chết mới thấy được ý nghĩa mình cần phải sống như thế nào để mà viết. 

Phóng viên: Giữa chiến trường gian khó ác liệt như vậy, bà thường viết vào lúc nào?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng: Sự thật phần lớn thời gian chúng tôi chiến đấu với kẻ thù. Đạn bom mù mịt và hành quân liên miên. Có những đợt 10 đêm hành quân liên tục, ban ngày có khi tôi ngủ gật trên cả vũng nước. Sau mỗi trận đánh, chúng tôi thường lùi lại hậu phương, gọi là hậu phương nhưng cũng chỉ cách trận đánh một xóm nhỏ, để bắt đầu ngồi viết.  Chủ yếu và viết phóng sự, đưa tin số liệu chiến trường và tường thuật trận đánh. Khi có những khoảng lặng dài hơn, tôi dùng chất liệu đó viết truyện ký.

Ban Văn học Cục Chính trị Quân khu 5 năm 1973.

Ban Văn học Cục Chính trị Quân khu 5 năm 1973.

Từ mảnh đất thiêng Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội, phong trào “Ba sẵn sàng” nhanh chóng lan rộng ra cả nước và trở thành cao trào cách mạng của tuổi trẻ.

Từ mảnh đất thiêng Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội, phong trào “Ba sẵn sàng” nhanh chóng lan rộng ra cả nước và trở thành cao trào cách mạng của tuổi trẻ.

Phóng viên: Bà còn nhớ bài báo đầu tiên của mình không?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng: Đó là bài bút kí chung của tôi và nhà báo Nguyễn Văn Luyện. Chiến trường ác liệt, chúng tôi phân công nhau tác nghiệp. Tôi lên tuyến trước, trực tiếp khai thác số liệu, anh Luyện ở tuyến sau qua điện thoại ghi chép lại số liệu tôi vừa lấy. Bài báo đó được đăng ở báo Quân Giải phóng Miền Trung Trung Bộ và được Đài Tiếng nói Việt Nam lấy đọc trên sóng. 

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng cùng chồng - nhà văn Chu Lai.

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng cùng chồng - nhà văn Chu Lai.

Phóng viên: Trăn trở lớn nhất của bà trong những năm tháng cầm bút ngày ấy và bây giờ là gì?

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng: Tôi từng viết trong truyện ngắn “Đêm Sơn Lộc”: “Bây giờ xung quanh mình chỉ toàn là anh hùng, chỉ sợ mình không đủ tâm, đủ tầm để viết”. Suy nghĩ ấy, vẫn còn ở lại trong tôi, cho đến tận bây giờ.

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng về thăm những đồng đội cũ đã hy sinh.

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng về thăm những đồng đội cũ đã hy sinh.

Những năm tháng ấy, Vũ Thị Hồng trở thành tấm gương cho nhiều cán bộ chiến sĩ sư đoàn noi theo. Có một cô nhà báo vác AK đuổi địch như thế mà mình là anh lính chiến thực sự sao lại không làm được như cô ấy, hoặc hơn cô ấy? Cứ như thế, Vũ Thị Hồng đã động viên được rất nhiều chiến sĩ lúc bấy giờ. 

Đại tá, nhà văn NGUYỄN BẢO
Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng (bí danh Nguyễn Thị Bắc Hà) sinh năm 1950. Bà là phóng viên Tạp chí Văn nghệ quân giải phóng Trung Trung Bộ thời kháng chiến chống Mỹ. Sau hòa bình, bà công tác tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Trưởng ban Công tác phụ nữ quân đội.

Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Vũ Thị Hồng: "Xóm biển" (Tập truyện ngắn), "Tiếng rừng" (Tập truyện ngắn), "Trở lại là em" (Tiểu thuyết), “Có một thời yêu” (Tập truyện ngắn)...

Bà từng có nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết đoạt giải thưởng Văn học về đề tài chiến tranh Cách mạng:
*Giải A cuộc thi do Bộ Nội vụ tổ chức viết về người phụ nữ trên mặt trận an ninh với tiểu thuyết "Trở lại là em"
*Giải A cuộc thi viết Kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội với bút ký "Ở ấp Thanh Mỹ"
*Giải B cuộc thi do Bộ Lâm nghiệp tổ chức viết về đề tài lâm nghiệp với truyện ngắn "Tiếng rừng"
*Giải thưởng văn học 5 năm (1990-1995) của Bộ Quốc phòng
*Giải Nhì cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống 2012-2015.
Ở tuổi 74, bà vẫn tiếp tục cho ra mắt tiểu thuyết “Chạm vào ký ức”.

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng và nhà báo Hạnh Thủy.

Đại tá, nhà văn Vũ Thị Hồng và nhà báo Hạnh Thủy.

Ngày xuất bản: 24/3/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH
Nội dung: HẠNH THỦY
Ảnh: PHƯƠNG NAM, NVCC
Biên tập, trình bày: PHI NGUYÊN - HOÀNG LINH