Khái niệm “chuyển đổi số” được nhắc đến rất nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng thời gian qua. Vậy chuyển đổi số là gì và có tầm quan trọng như thế nào trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0?

Định nghĩa một cách ngắn gọn và dễ hiểu thì chuyển đổi số (digital transformation) là sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc các hoạt động kinh doanh.

Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử nghiệm cái mới và thoải mái chấp nhận các thất bại.

Không chỉ có vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp mà chuyển đổi số còn đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực khác của xã hội như chính phủ, truyền thông đại chúng, y học, khoa học...

Tại Việt Nam, khái niệm Chuyển đổi số được hiểu theo nghĩa là quá trình thay đổi từ mô hình doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (cloud computing)… nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty.

Những lợi ích dễ nhận biết nhất của chuyển đổi số đối với doanh nghiệp đó là cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn; lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của nhân viên... Những điều này giúp tăng hiệu quả hoạt động và tính cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp được nâng cao.

Tận dụng các nền tảng công nghệ sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện được nhiều lĩnh vực và hướng đến 5 mục đích cuối cùng của chuyển đổi số: Tăng tốc độ ra thị trường; Tăng cường vị trí cạnh tranh trên thị trường; Thúc đẩy tăng trưởng doanh thu; Tăng năng suất của nhân viên; Mở rộng khả năng thu hút và giữ chân khách hàng

Chuyển đổi số còn góp phần gia tăng năng suất lao động. Nghiên cứu của Microsoft cho thấy, năm 2017, tác động của chuyển đổi số tới tăng trưởng năng suất lao động ở vào khoảng 15%, đến năm 2020, con số này là 21%.

Đối với người dân, chuyển đổi số làm thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giao dịch với nhau. Với nhà nước, chuyển đổi số dùng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi trải nghiệm người dùng với các dịch vụ do nhà nước cung cấp, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình và phương thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước.

Chuyển đổi số góp phần gia tăng năng suất lao động.

Chuyển đổi số góp phần gia tăng năng suất lao động.

Chuyển đổi số đang ngày một thay đổi nhận thức của những nhà lãnh đạo, những người có khả năng quyết định hướng đi và khả năng chuyển đổi thành công của tổ chức. Bộ máy chính quyền của nhiều quốc gia sau khi nhận ra tầm quan trọng của chuyển đổi số trong việc gia tăng hiệu quả hoạt động và bảo đảm an ninh quốc gia, đã lập tức bước vào một “cuộc đua” mới trong việc áp dụng chuyển đổi số.

Trước đây, các công nghệ kiểu cũ thì chỉ có các công ty lớn với tiềm lực kinh tế mạnh mới có thể tiếp cận được công nghệ đó. Do vậy, họ luôn dẫn đầu thị trường, ít nhất là một vài bước. Nhưng bây giờ, dù công ty nhỏ hay những startup mới đều có thể tiếp cận được công nghệ không thua kém gì các những công ty lớn.

Tốc độ chuyển đổi số tại các khu vực và quốc gia là khác nhau, tùy thuộc vào mức độ phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp. Trong đó khu vực châu Âu được đánh giá là khu vực có tốc độ chuyển đổi số nhanh nhất, tiếp đến là Mỹ và các quốc gia tại châu Á. Các doanh nghiệp tại Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức trong cuộc đua chuyển đổi số.

Tại Việt Nam, các mô hình chuyển đổi số cũng đang tạo ra những dịch vụ có ích cho người dân và tận dụng một cách hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Tuy nhiên, chúng cũng tạo ra những mâu thuẫn, thay đổi cơ bản với mô hình kinh doanh truyền thống. Thế mạnh công nghệ mới đang giúp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp giành lợi thế trên các lĩnh vực công nghiệp truyền thống.

Xu thế này tạo ra những thay đổi quan trọng trong chuỗi giá trị các ngành công nghiệp cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong bối cảnh của nền kinh tế số hiện nay, đòi hỏi các tổ chức, doanh nghiệp và mô hình truyền thống phải có sự thay đổi mạnh mẽ để tiếp tục tồn tại và phát triển.

Với dân số gần 100 triệu người và là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất nhì khu vực, dân số trẻ năng động và có khả năng tiếp cận công nghệ cao nhanh chóng, các chuyên gia đánh giá Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong việc chuyển đổi số. Đây là những cơ hội mạnh mẽ để các doanh nghiệp Việt Nam tạo ra sự đột phá trên thị trường nhờ vào chuyển đổi số.

Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, với 3 trụ cột chính: Chính phủ số, Kinh tế sốXã hội số.

Theo Thứ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Huy Dũng, việc hình thành chính quyền số sẽ giúp nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ máy chính phủ, giúp cải thiện sự ổn định và minh bạch chính sách, nâng cao chất lượng các dịch vụ công cung cấp cho xã hội, hình thành các hạ tầng công nghệ và nền tảng dữ liệu quốc gia phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Đây chính là những nền tảng hết sức quan trọng để phát triển kinh tế số và xã hội số.

Kinh tế số được hình thành sẽ tạo ra một thị trường với quy mô giá trị tăng theo cấp số nhân nhờ các mô hình kinh doanh mới, các kênh kết nối người bán đến người mua theo các phương thức mới, năng lực sản xuất ở cấp độ cao hơn nhờ công nghệ số và nguồn dữ liệu khổng lồ, giúp tạo ra sức cạnh tranh mới cho thị trường và các dư địa tăng trưởng mới cho nền kinh tế. Kinh tế số chính là động lực để “đánh thức” các doanh nghiệp từ tác động của dịch bệnh và nhanh chóng vươn mình phát triển để giúp nền kinh tế sớm phục hồi và phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.

Xã hội số giúp hình thành những công dân số được trang bị tốt về kỹ năng số (ứng dụng và sử dụng công nghệ), nhận thức số (về an toàn an ninh mạng, sở hữu trí tuệ…) để có thể nhanh chóng thích ứng với các trạng thái xã hội mới, cùng với đó là nền tảng hạ tầng số phủ khắp toàn dân (phổ cập điện thoại thông minh, internet băng rộng, phủ sóng 4G…) giúp mỗi người dân vừa có thể trở thành một người tiêu dùng vừa có thể là một doanh nghiệp siêu nhỏ.

Công tác chuyển đổi số trong 6 tháng đầu năm 2022 diễn ra qua một số nhiệm vụ: nhận thức số, thể chế số, hạ tầng số, nền tảng số, nhân lực số, an toàn an ninh mạng, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, đô thị thông minh. Một số thực trạng chuyển đổi số ở Việt Nam:

Xây dựng, phát triển hạ tầng số là một nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ chú trọng và giao phó trong các văn bản quan trọng về chuyển đổi số. Trong thời gian qua Chính phủ, các Bộ, ngành đã ưu tiên, nỗ lực đẩy mạnh phát triển hạ tầng số và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

  • Tốc độ truy cập mạng băng rộng cố định đạt 71,79Mbps, tăng 32,7% so với cùng kỳ năm 2021. Tốc độ truy cập mạng băng rộng di động đạt 35,29Mbps, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2021.
  • Các doanh nghiệp viễn thông di động đã triển khai phủ sóng được 477/832 thôn lõm sóng viễn thông.
  • Bàn giao cho các tỉnh là 457.249 máy tính trong Chương trình “Sóng và máy tính cho em”.
  • Số thuê bao di động sử dụng dịch vụ Mobile Money tăng 4 lần so với tháng 1/2022.

Bên cạnh những con số này thì vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế trong phát triển hạ tầng số.

Cụ thể, tốc độ mạng băng rộng cố định, di động vẫn là mức trung bình khá của thế giới, chưa tạo bước đột phá về hạ tầng phục vụ chuyển đổi số quốc gia. (tốc độ mạng cố định đứng thứ 45/182 quốc gia và tốc độ mạng di động đứng thứ 47/140 quốc gia - theo thống kê đến ngày 1/9/2022 của Ookla Speedtest)

Việc xóa vùng lõm sóng viễn thông và cung cấp máy tính trong Chương trình “Sóng và máy tính cho em” chưa hoàn thành. Chương trình phủ sóng điểm lõm mới được hơn một nửa chặng đường cũng như con số máy tính trao đến cho những em thơ trên con đường đi học con chữ vẫn là nhỏ bé.

Ngoài ra, việc phát triển các nền tảng chủ lực cho hạ tầng số mới hình thành, bước đầu triển khai nên chưa có được hiệu quả ghi nhận. Các nền tảng, công nghệ đang là trọng điểm phát triển toàn cầu dù đã triển khai trong nước nhưng vẫn mờ nhạt chưa tạo ra điểm sáng cho hạ tầng số.

Một trong 3 trụ cột chính cần phát triển trong mục tiêu của chương trình chuyển đổi số quốc gia là xã hội số. Nếu như chính phủ, các cơ quan bộ, ngành địa phương thúc đẩy chính phủ số; các doanh nghiệp và giao dịch điện tử thúc đẩy kinh tế số thì xã hội số cần được thúc đẩy chủ yếu bởi người dân.

Điểm nổi bật trong hoạt động của người dân trên các nền tảng số trong năm 2022 là: với gần 200 triệu lượt tải mới các ứng dụng di động trong tháng 6/2022 đã đưa Việt Nam vào tốp 7 toàn cầu về số lượt tải mới. Bên cạnh đó, có 8 nền tảng số Việt Nam với trên 10 triệu người dùng thường xuyên hằng tháng.

Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn có nhiều tồn tại là rào cản cho sự phát triển xã hội số tại Việt Nam. Các nền tảng xuyên biên giới vẫn chiếm thị phần đáng kể về số lượng người dùng thường xuyên ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Đặc biệt nhóm các nền tảng ảnh hưởng mạnh đến xã hội số như mạng xã hội, nền tảng giải trí, tin tức, mua sắm, thanh toán thì “thói quen” và “xu hướng” là sự ảnh hưởng bao chùm đến thói quen sử dụng của người Việt.

Trạng thái bình thường mới ghi nhận sự thay đổi của người dùng và thời gian sử dụng với các nhóm nền tảng khác nhau. Nếu nhiều nhóm nền tảng như mua sắm, điện ảnh, họp trực tuyến ghi nhận sự sụt giảm về số lượng người dùng và thời lượng sử dụng thì một số nhóm nền tảng có sự tăng trưởng đáng kể (như nhóm nền tảng phục vụ du lịch, nền tảng phục vụ đi lại và các nền tảng phục vụ việc học ôn luyện kiến thức phổ thông)

Kỹ năng số của người dân còn chưa cao, người dân cũng không thực sự quan tâm đến các nền tảng có chứa tri thức trên không gian số. Khảo sát thực tế cho thấy các nền tảng số đọc sách, học thêm, học trực tuyến ít được quan tâm hơn nhóm các nền tảng như mạng xã hội, giải trí, mua sắm.

Người dân chưa thực sự quan tâm đến việc tự bảo đảm an toàn thông tin trên môi trường mạng. Vẫn luôn có nhiều vụ việc về các ứng dụng lừa đảo cũng như việc thiếu cách giác khi sử dụng các nền tảng xuyên biên giới mà không biết việc thông tin cá nhân bị thu thập và chuyển ra ngoài Việt Nam với nhiều mục đích sử dụng khác.

Ngay từ khi công cuộc chuyển đổi số được Thủ tướng chính phủ khởi xướng, nhận thức đóng vai trò quyết định. Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức, thay đổi nhận thức nhanh nhất, mang lại hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí cần ưu tiên chuyển đổi số trước.

Công cuộc chuyển đổi số đã bước sang năm thứ 3; nếu như 2 năm đại dịch 2020-2021, chuyển đổi số được thực hiện song song, đồng hành và có phần âm thầm thì đến năm 2022, chuyển đổi số đã bước vào giai đoạn tăng tốc, gặt hái hiệu quả ước lượng được. Tuy nhiên, nhận thức vẫn luôn là vấn đề quan trọng, then chốt và kiên quyết trong mọi vấn đề của chuyển đổi số.

Điểm qua một số hoạt động, công tác chuyển đổi số 6 tháng đầu năm 2022:

  • Thủ tướng Chính phủ quyết định ngày 10/10 là Ngày Chuyển đổi số quốc gia. Chủ đề năm 2022 là “Chuyển đổi số giải quyết các vấn đề của xã hội vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân”.
  • Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Kế hoạch hướng dẫn thực hiện. Theo đó, hoạt động hưởng ứng năm 2022 tập trung vào các sáng kiến mang lại lợi ích thiết thực cho người dân; thúc đẩy, quảng bá toàn dân sử dụng sản phẩm, dịch vụ số Việt Nam; thúc đẩy phổ cập kỹ năng số, giúp người dân được thụ hưởng kết quả chuyển đổi số. Bên cạnh 2 địa phương lựa chọn ngày Chuyển đổi số địa phương trùng Ngày Chuyển đổi số quốc gia thì có 5 địa phương chọn ngày Chuyển đổi số địa phương khác. Ngày Chuyển đổi số không chỉ là một ngày kỉ niệm mà còn nhiều mục đích như: nâng cao nhận thức của người dân toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của chuyển đổi số; thúc đẩy sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số.

Chuyển đổi số giải quyết các vấn đề của xã hội vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân.

Chuyển đổi số giải quyết các vấn đề của xã hội vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân.

  • Với cương vị là Bộ khởi xướng và chủ trì chính nhiệm vụ chuyển đổi số, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có nhiều hoạt động nhằm giới thiệu, tuyên truyền và phổ biến các điểm sáng về chuyển đổi số. Một trong những hoạt động đó là tổng hợp và công bố 55 bài toán chuyển đổi số của các bộ, ngành và địa phương tại địa chỉ: https://c63.mic.gov.vn/ và công bố 21 câu chuyện chuyển đổi số Việt Nam từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp để lan toả những sáng kiến, cách làm, kinh nghiệm, bài học, mô hình tham khảo về chuyển đổi số tại địa chỉ: https://t63.mic.gov.vn/. Một hoạt động khác cũng đang được sự hưởng ứng cao của người dân là kênh truyền thông Zalo OA “Chuyển đổi số quốc gia”.

Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn có nhiều hạn chế cần nhanh chóng thay đổi khắc phục:

  • Chuyển đổi số là cần có hoạt động cụ thể, thực tiễn, đơn giản nhưng hiệu quả. Tuy nhiên việc phổ biến nâng cao nhận thức về chuyển đổi số thời gian qua ở một số địa phương vẫn mang tính hình thức, ví dụ như tổ chức dưới dạng hội nghị, hội thảo, diễn đàn, chuyên đề, chưa mang lại nhiều hiệu quả thiết thực cho người dân.
  • Các bộ, ngành, địa phương vẫn lúng túng trong việc xác định tường minh bài toán chuyển đổi số của mình và thứ tự cần ưu tiên giải quyết. Các bộ, ngành, địa phương vẫn thực hiện tuyên truyền, phổ biến theo cách thức truyền thống là tổ chức hội nghị, hội thảo hoặc tuyên truyền, phổ biến các nội dung chung chung, chưa gắn với yêu cầu thực tiễn của bộ, ngành, địa phương.
  • Việc truyền thông thay đổi nhận thức xuyên suốt các cấp vẫn còn lờ mờ bởi thiếu những câu chuyện việc làm cụ thể từ địa phương.

Tiếp sau nhận thức số, nhân lực số được coi là yếu tố then chốt để thực hiện chuyển đổi số hiệu quả và bền vững, giúp thực hiện thành công các mục tiêu trong Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Trong năm 2022, khi đại dịch dần được kiểm soát, các hoạt động chuyển đổi số cũng đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Theo đó, 15/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Kế hoạch triển khai Đề án nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Nhân lực số được coi là yếu tố then chốt để thực hiện chuyển đổi số hiệu quả và bền vững.

Nhân lực số được coi là yếu tố then chốt để thực hiện chuyển đổi số hiệu quả và bền vững.

Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai Nền tảng học trực tuyến mở đại trà Onetouch (https://onetouch.mic.gov.vn/), đã hoàn thành 3 khóa bồi dưỡng về chuyển đổi số cho 1.648 công chức, viên chức là đội ngũ nòng cốt về chuyển đổi số của bộ, ngành, địa phương; dự kiến sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương triển khai công tác chuẩn bị bồi dưỡng chuyển đổi số cho khoảng 30 nghìn công chức, viên chức, 200 nghìn thành viên Tổ Công nghệ số cộng đồng và bồi dưỡng kỹ năng số miễn phí cho người dân.

Cùng với đó, sáng kiến Tổ Công nghệ số cộng đồng đã được Bộ Thông tin và Truyền thông có văn bản hướng dẫn thí điểm triển khai và biên soạn các tài liệu để hướng dẫn cho Tổ Công nghệ số cộng đồng và cho người dân. Đến nay đã có 47/63 tỉnh, thành phố đã triển khai 40.590 Tổ Công nghệ số cộng đồng đến tận thôn, xóm với hơn 200 nghìn thành viên tham gia. Tài liệu biên soạn cho Tổ Cộng nghệ số cộng đồng cũng được xây dựng đầy đủ các định dạng từ slide, bài giảng, áp phích, tệp âm thanh tuyên truyền và dễ dàng truy cập, xem, tải về và chia sẻ từ một đường link duy nhất

15/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Kế hoạch triển khai Đề án nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

15/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Kế hoạch triển khai Đề án nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Tuy nhiên, vẫn có nhiều hạn chế cần nhanh chóng thay đổi, khắc phục. Về số lượng, tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin/tổng số lao động của Việt Nam ước đạt gần 1%, thấp hơn một số quốc gia mạnh về công nghệ thông tin như Hoa Kỳ (4%), Hàn Quốc (2,5%), Ấn Độ (1,78%). Về chất lượng, báo cáo của TopDev, một trong những công ty hàng đầu về tuyển dụng công nghệ thông tin, công bố năm 2021 cho thấy chỉ có khoảng 30% kỹ sư, cử nhân mới ra trường đáp ứng yêu cầu thực tế của công việc.

Năm 2022, cùng với xu thế phát triển chuyển đổi số và sự chuyển dịch các vùng kinh tế trên thế giới, tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin/tổng số lao động của Việt Nam có thể tăng cao tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu thực tế cũng như cạnh tranh nguồn nhân lực các quốc gia lớn vẫn không phải câu chuyện một sớm một chiều.

Tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin/tổng số lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với một số nước.

Tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin/tổng số lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với một số nước.

Về kỹ năng, Việt Nam chưa có chuẩn kỹ năng số quốc gia mà hiện mới chỉ có chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin do Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành từ năm 2014, dựa trên những nghiên cứu, khảo sát của giai đoạn trước đó, thiếu một số nội dung như phân tích dữ liệu, trí tuệ nhân tạo v.v…. Các kỹ năng số thực tiễn cho người dân mới bước đầu được xây dựng, thí điểm triển khai, chưa có hiệu quả rõ rệt.

Bên cạnh đó, việc triển khai Tổ Công nghệ số cộng đồng tại địa phương còn mang tính hình thức, chưa mang lại hiệu quả thiết thực.

Với sự chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao của các bộ, ngành, địa phương trong thời gian qua đã được đẩy mạnh, hiệu quả ngày càng được khẳng định.

Đến nay, khoảng 97,3% dịch vụ công trực tuyến đủ điều kiện đã được cung cấp trực tuyến mức độ 4; khoảng 40% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến (tăng 10% so với 30% cuối năm 2021).

Nhiều địa phương đã có những sáng kiến, cách làm hay để nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến (18 tỉnh đã ban hành văn bản giao chỉ tiêu cho từng cơ quan nhà nước trên địa bàn về tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ, tỷ lệ hồ sơ được xử lý trực tuyến; 5 tỉnh ban hành chính sách khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến như giảm thời gian, chi phí sử dụng dịch vụ).

Việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến giúp tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại… của người dân.

Việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến giúp tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại… của người dân.

Mặc dù các kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, nhưng so với mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch hoạt động năm 2022 của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số (80% dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ, 50% hồ sơ được xử lý trực tuyến) thì khoảng cách còn lớn.

Mặt khác, ngày 24/6/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2022/NĐ-CP quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng, theo đó các dịch vụ công trực tuyến được yêu cầu cung cấp ở mức độ cao hơn, triệt để hơn, hướng tới dịch vụ công trực tuyến toàn trình.

Dịch vụ công trực tuyến được chia làm 4 cấp độ.

Dịch vụ công trực tuyến được chia làm 4 cấp độ.

Chuyển đổi số là tất yếu với nền kinh tế và thị trường Việt Nam hiện nay, song vẫn còn rất mới mẻ. Chương trình chuyển đổi số quốc gia là nền tảng, bước đệm cho quá trình chuyển đổi số một cách hệ thống và toàn diện ở Việt Nam. Đến thời điểm hiện tại, có thể nói, cơ bản các bộ, ngành, địa phương đã bước đầu xác định được danh mục các nhiệm vụ chuyển đổi số đến năm 2025. Tuy nhiên trong quá trình triển khai còn gặp một số hạn chế, chưa đạt được mục tiêu đề ra.

Có thể thấy là mọi hoạt động của người dân, đặc biệt là trên không gian mạng thông qua các thiết bị di dộng là cấu phần thiết yếu để thúc đẩy xã hội số. Những con số nổi bật trên về hoạt động của người dân trên các nền tảng số di động trong 6 tháng đầu năm đã minh hoạt một cách rõ ràng rằng xã hội số đang tự hình thành từ chính các hoạt động của người dân với các tương tác số mà ngày một thường xuyên và đã dần trở thành thói quen trong bất cứ ai.

Tuy nhiên, có một vế vô cùng quan trọng đó là “thường chịu cùng thẩm quyền chính trị và các kỳ vọng văn hóa chi phối”. Điều này bị phần lớn mọi người không nhận ra, có thể có những nội dung chúng ta chia sẻ đang trực tiếp/gián tiếp ảnh hưởng đến chính trị của nước nhà, có thể có những thói quen, xu hướng mà chúng ta tạo ra đang làm xấu đi kì vọng văn hóa của xã hội hiện tại.

Vì vậy kể cả trong xã hội hiện tại hay xã hội số của 10, 20 năm nữa thì cũng cần sự chung tay đoàn kết, hiểu đúng và làm tốt của mỗi cá nhân. Tất nhiên bên cạnh đó, xã hội số muốn phát triển cũng phải đi kèm với nhận thức số và nguồn nhân lực số, vì vậy đào tạo, tập huấn, định hướng nhận thức đúng vẫn luôn là yêu cầu cơ bản và bắt buộc nhất.

Mặc dù Chương trình, Chiến lược được định hướng cho 10 năm nhưng nếu mỗi năm không cố gắng, nỗ lực thì các nhiệm vụ cụ thể cũng khó mà hoàn thành được. Với hai mục tiêu trong tâm năm 2022 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số chưa hoàn thành là tỷ lệ dân số có điện thoại thông minh đạt 85% và tỷ lệ hộ gia đình có đường Internet cáp quang băng rộng đạt 75% thì cần sự chung tay của các cơ quan, doanh nghiệp cùng phối hợp, thúc đẩy hơn nữa góp phần vào sự phát triển hạ tầng số bền vững, đi đầu tại Việt Nam.

Vì vậy, để 6 tháng cuối năm cũng như tổng thể 2022, Việt Nam tiếp tục gặt hái những thành quả trong chuyển đổi số thì cần thiết sự vào cuộc của không chỉ cơ quan nhà nước mà còn cả người dân, cần có sự lan tỏa nhiều hơn nữa về những câu chuyện chuyển đổi số thực chất và thành công.

Xuất bản ngày: 10/10/2022
Chỉ đạo thực hiện: TRUNG HIẾU - NGỌC THANH - TRƯỜNG SƠN
Tổ chức sản xuất: HỒNG VÂN
Nội dung: NINH CƠ
Trình bày: VĂN TOẢN