Sống theo lý lẽ của rừng

Rơ Ông Ha Tin, người đàn ông Cơ Ho miền Ðưng K’Nớh (Lạc Dương, Lâm Ðồng) đứng cùng tôi bên mép buôn trong buổi chiều mùa đông buốt giá, chỉ tay lên dãy núi sừng sững trước mặt, anh nói: "Từ xưa đến nay, người trong buôn mình đều nói rằng, đỉnh cao Yũ Till trên núi Yàng Hău là nơi có rừng thiêng, ở đó có ngọn giáo thần cắm sâu trên tảng đá khổng lồ. Không ai dám leo lên đó chặt cây, săn thú. Nếu ai vào lấy gì của rừng thiêng Yũ Till thì Yàng sẽ phạt nặng, có khi bắt phải chết đấy…".

Một thanh niên dân tộc Cơ Ho tại huyện Lạc Dương (Lâm Ðồng) làm hướng dẫn viên du lịch trải nghiệm rừng.
Một thanh niên dân tộc Cơ Ho tại huyện Lạc Dương (Lâm Ðồng) làm hướng dẫn viên du lịch trải nghiệm rừng.

Vậy mà tôi lại thấy dãy núi Yàng Hău bên dòng sông Ðạ Lôi đầu nguồn K’rông Nô hiện lên trước mặt một vẻ đẹp vô cùng hùng vĩ, đang định rủ Ha Tin vào đó một chuyến. Tôi hỏi, Ha Tin từng nhìn thấy ngọn giáo thần cắm trên tảng đá thiêng lần nào chưa? Anh bảo, nghe ông bà nói vậy chứ anh chưa bao giờ dám đặt chân vào đó.

Nương náu rừng thiêng

Câu chuyện phủ màu huyền thoại của Ha Tin làm cho tôi liên tưởng về những ngọn núi, những cánh rừng thiêng có mặt khắp nơi trên đại ngàn Tây Nguyên. Không chỉ thiêng liêng, núi rừng trên miền thượng du này vừa là những không gian sinh tồn, những không gian văn hóa đặc trưng. Giữa mênh mông đại ngàn, con người ngàn đời nay nương náu dưới tán rừng đã lựa chọn cho mình phương cách sống nương theo lý lẽ của rừng, đạt tới đỉnh cao là những minh triết rừng đã được hun đúc qua biến thiên thời gian.

Bao năm lang thang khắp miền cao nguyên, tôi cảm nhận, núi rừng đối với họ vừa bí ẩn, hoang dã, vừa thân thiết, gần gũi. Trên đất Tây Nguyên này, với đồng bào các dân tộc, ở đâu có núi rừng ở đó có thần linh. Cả không gian đại ngàn đều là nơi ngự vì của các vị thần, nơi nào núi càng cao, rừng càng sâu thì thần linh nơi đó càng thiêng. Ðồng bào nam Tây Nguyên sùng kính nhiều vị thần. Ðó là Yàng N’du dựng lên trời đất, rồi Yàng Bnơm (Thần Núi), Yàng Bri (Thần Rừng), Yàng Ù (Thần Ðất), Yàng Dà (Thần Nước), Yàng Máttơngai (Thần Mặt Trời), Yàng Kơnhai (Thần Mặt Trăng), Yàng Tiah (Thần Mặt Ðất), Yàng Trồ (Thần Bầu Trời) và gần gũi, thân thiết như Yàng Kòi (Thần Lúa) lo cái ăn hay Yàng Hìu (Thần Nhà) lo sắp đặt chỗ ở. Tồn tại bên cạnh các vị phúc thần còn có muôn loài ma quỷ hiện hữu giữa núi rừng bí ẩn mà đồng bào gọi tên chung là "cà". Các vị thần trong tâm thức của cư dân rừng, được phân công mỗi vị một việc. Thần cũng ngày đêm sớm tối cần mẫn lo sắp xếp chuyện sinh cơ lập nghiệp, lo cái ăn cái uống, lo sinh nòi đẻ giống cho muôn loài cư ngụ ở rừng. Trong khi các vị phúc thần dốc lòng phò trợ cho buôn làng no ấm, chứng dám cái hay, điều tốt của cư dân cộng đồng, xử phạt những người làm việc xấu thì các thế lực "cà" chăm chăm rình rập làm hại lương dân. Người Tây Nguyên nương náu dưới tán rừng, họ vừa phải lo lễ lạt cho các vị phúc thần ưng cái bụng, lại vừa phải làm vui lòng ma quỷ. Bên cạnh yếu tố tín ngưỡng đa thần "vạn vật hữu linh", đó còn là cách cư dân rừng ứng xử với các thế lực siêu nhiên nhằm cân bằng đời sống tinh thần của chính họ…

Sống theo lý lẽ của rừng -0

Giữa núi rừng, người Tây Nguyên đã sáng tạo nên một nền văn hóa rừng đa dạng, độc đáo. 

Tôn trọng, hòa hợp với thiên nhiên

Trò chuyện với nhiều già làng, tộc trưởng, tôi hiểu rằng, đồng bào ứng xử với tự nhiên như là một cách dự phần vào đời sống hoang dã. Họ coi mình là một thực thể cộng sinh, một thành phần trong muôn ngàn giống loài tự nhiên. Không dám phán xét mà xin được trân trọng về một mạch tư tưởng, một thái độ ứng xử thể hiện sự tôn trọng, sự hòa hợp giữa con người với không gian sinh tồn của mình. Ðại ngàn hùng vĩ và nhân văn thêm bởi hệ minh triết rừng, bởi lẽ sống của con người giữa thăm thẳm mênh mang thiên nhiên.

Nhìn ánh mắt của Ha Tin, tôi nghĩ rằng, anh đang nói về khu rừng thiêng nơi mình sống bằng một tâm tưởng lễ độ, một cách tự nguyện thực hiện quy ước giữa thần linh và con người từ thuở xa xưa. Thần có linh của thần, người có phúc của người. Giữa thiên nhiên hoang dã và bí ẩn, con người thật nhỏ bé, nhưng là sự nhỏ bé trong tâm thế bình đẳng. Trước núi rừng, trong tinh thần của cư dân rừng vừa có sự sợ hãi cố hữu, vừa có sự thân thuộc thường ngày. Họ tìm cách đối thoại để thêm phần hiểu biết mà đối phó. Họ tìm kiếm phương cách đối đãi qua các nghi lễ nhằm đạt sự thỏa hiệp lại vừa hòa hợp bằng những phép ứng xử trở thành tập quán pháp. Và rồi, không biết tự bao giờ, lẽ sống của người ở rừng cũng hợp theo lý lẽ của rừng. Tươi xanh và cội cằn. Khoan hòa và thịnh nộ. Bao dung và tàn nhẫn. Dịu dàng và bạo liệt. Suốt bao đời qua, sống giữa đại ngàn hoang dã với muôn vàn đe dọa và cả những cơ hội vô tận, người ở rừng đã trải qua biết bao năm tháng gian nan và để lại một hệ thống di sản văn hóa đa dạng và lưu truyền một kho tàng tri thức bản địa vô giá…

Già làng Krajăn Plin ở vùng núi Lang Bian nói: "Từng có thời du canh, phát rừng làm rẫy, nhưng đồng bào mình ngày xưa không phát rừng tùy tiện. Người Cơ Ho, Mạ, Chu Ru không tàn phá những cánh rừng đầu nguồn. Là những cư dân "ăn rừng" mưu sinh, nhưng việc khai thác lâm sản của ông bà trong quá khứ chỉ dừng lại ở nhu cầu ăn, ở, sinh hoạt của cộng đồng mà không tạo nên sinh lợi về tiền tệ". Không được chặt cây hay săn bắt thú vật ở khu rừng đầu nguồn, theo các già làng, nếu tự ý chặt, bắt ở những khu rừng này sẽ bị thần linh trả thù, gây mất mùa, dịch bệnh hay chết chóc. Thực ra, sống ở rừng, người Tây Nguyên nhận thức sâu sắc giá trị của rừng đầu nguồn đối với sự bảo tồn và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. Khi canh tác nương rẫy, đồng bào cũng trừ lại những khoảnh rừng trên đỉnh núi. "Giữ lại để các vị thần có nơi trú ngụ", nhiều người nói vậy. Nhưng thật sự bản chất của sự ứng xử này là khoa học, là tri thức và kinh nghiệm được hun đúc qua nhiều thế hệ cư dân bản địa. Người Tây Nguyên hiểu rằng, những khoảnh rừng này chống lại mưa lũ, xói mòn.

Thời xưa, nếu thiếu một vài cây gỗ để làm nhà hay làm quan tài, các gia đình xin phép chủ làng rồi đem lễ vật cúng ở vị trí cây định chặt hạ để xin phép thần linh. Theo các già làng, trước đây, mỗi khi dân trong buôn hạ cây, họ phải làm lễ cúng Yàng Bri (Thần Rừng). Lễ vật có gà, heo hoặc dê và không thể thiếu rượu cần. Tín ngưỡng thờ Thần Rừng với những kiêng cữ, nếu gạt bỏ những màn sương huyền bí, có thể thấy đó là một phương thức tác động vào tự nhiên một cách khoa học, ngăn chặn các hành động tàn phá rừng vô lối…

Người Cơ Ho hát rằng: "Sông suối là của chung/Cá dưới suối ai xúc cũng được/Bắt ếch con còn chừa ếch mẹ/Chặt cây tre phải chừa cây măng/Ðốt tổ ong phải chừa ong chúa/ Bẫy cá bằng thuốc sẽ làm suối nghèo…". Luật tục của người Mạ cũng quy định rõ về những khu rừng nào thì được và những khu rừng nào thì không được tự ý chặt hạ, khai thác: "Brê krong, cau dồs/Brê Yàng, cau dồs/Brê rơlau, ờ dồs…". (Rừng thiêng, bị phạt/ Rừng thần, bị phạt/ Rừng thường, cứ việc…). Với những tri thức, kinh nghiệm, từ xa xưa, cư dân rừng đã có ý thức cao trong việc bảo vệ tài nguyên. Phương thức tác động, cách ứng xử chứa tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự hiểu biết và tôn trọng thiên nhiên. Quy ước bảo vệ rừng thể hiện rõ trong các bài văn vần pơn dik-pơn ding, nrí-nrình (luật tục) của cộng đồng. Ở đó, quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, hình phạt. Trách nhiệm là chính, còn hình phạt có chức năng củng cố trách nhiệm. Không phân biệt người trong hay ngoài cộng đồng, hễ vi phạm rừng thiêng sẽ bị xử phạt theo luật tục: nhẹ thì phải cúng một con gà, một chóe rượu; nặng thì phải cúng dê, trâu tạ lỗi Thần Rừng. Ở cộng đồng người Mạ, khi một người đàn ông đến tuổi trưởng thành, bản thân anh ta nhận thức được rằng mình đã mang rất nhiều món "nợ": nợ cha mẹ, họ hàng, làng buôn, nợ các thần linh, nợ núi rừng đã nuôi sống anh ta. Chính vì ý thức mang món "nợ" tinh thần đó, mà khi "ăn rừng", người đàn ông Mạ chỉ lấy từ rừng những gì mình cần, lấy vừa đủ, không để dư thừa, phí phạm hoặc lấy nhiều để tích lũy. Vì khi lấy đi từ rừng một sản vật nào đó, anh lại nợ thêm thần núi, thần rừng một giá trị tương đương mà có khi phải trả bằng cả mạng sống của mình…

Khôi phục "tâm thế" rừng

Trong những chuyến điền dã cùng các nhà nghiên cứu văn hóa hoặc tham gia các đoàn khảo sát lâm nghiệp, chúng tôi được ghi nhận rất nhiều những tri thức liên quan thiết chế "làng-rừng" cổ truyền. Một điều căn cốt mang tính kế thừa sâu sắc từ xã hội Tây Nguyên ngày xưa, mà chúng tôi đồng tình với nhận định của một nhà nghiên cứu: "Trong thẳm sâu tâm hồn của đồng bào, có một tình cảm ruột thịt và một lòng kính trọng thiêng liêng với rừng, họ coi cây rừng đúng như một sinh vật sống, cũng có linh hồn, cũng tràn đầy cảm xúc, cũng vui sướng, hạnh phúc, khổ đau. Người Tây Nguyên sống theo "đạo đức của rừng", vươn tới sự hoàn thiện, hiền minh như rừng. Mất rừng thì con người và cộng đồng người mất đi cái nền rộng lớn, bền chặt, thẳm sâu nhất của mình, trở nên bơ vơ, tha hóa, mất gốc, mất cội nguồn. Văn hóa Tây Nguyên là văn hóa rừng. Toàn bộ đời sống văn hóa đó, từ hệ giá trị đến những tín hiệu nhỏ đều là biểu hiện mối quan hệ khăng khít, máu thịt của con người, của cộng đồng với rừng".

Ngày xưa, ngàn đời nương náu dưới tán rừng, cư dân rừng đã tạo ra một hệ minh triết hòa hợp theo lý lẽ của rừng; vừa thiêng liêng, vừa gần gũi, vừa nhân văn và cũng vô cùng thực tế. Ngày nay, thiết chế xã hội, phương thức mưu sinh và tín ngưỡng của đồng bào đã có những biến đổi quan trọng. Rừng Tây Nguyên bây giờ là một phần trong kho tàng tài nguyên quốc gia; đồng bào các dân tộc thiểu số trở thành một lực lượng quan trọng trong công cuộc bảo vệ và phát triển vốn rừng. Bởi vậy, khôi phục "tâm thế" rừng để phát triển bền vững Tây Nguyên là khôi phục cả một hệ sinh thái đa dạng và đặc sắc, khôi phục không gian văn hóa ngàn đời, khôi phục hệ minh triết rừng mà đồng bào từng sáng tạo, đắp bồi và trao truyền qua nhiều thế hệ.