Tiến sĩ Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV kiến nghị, cần thống nhất về quan điểm, nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân; coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế, là lực lượng nòng cốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam; loại bỏ tư tưởng "trọng công hơn tư", nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước là “phục vụ, trân trọng” thay vì định kiến, hẹp hòi, mở ra kỷ nguyên mới của kinh tế tư nhân Việt Nam. Báo Nhân Dân xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết này.

1.Định hướng, quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân

Khối kinh tế tư nhân (KTTN) Việt Nam là khu vực kinh tế ngoài khu vực kinh tế Nhà nước, bao gồm 3 thành phần chính: doanh nghiệp tư nhân (DNTN), kinh tế cá thể (hộ kinh doanh) và kinh tế tập thể (chủ yếu là hợp tác xã). KTTN chính thức được công nhận là một thành phần kinh tế trong phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam từ Đại hội Đảng VI (1986); đến năm 2004, ngày 13/10 được chính thức công nhận là Ngày Doanh nhân Việt Nam nhằm khích lệ tinh thần khởi nghiệp, góp phần thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển. Từ Đại hội Đảng X (2006) đến nay, phát triển KTTN trở thành "một động lực quan trọng của nền kinh tế" là chủ trương xuyên suốt được Đảng và Nhà nước quan tâm.

Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN đã đưa ra các mục tiêu cụ thể “Phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp”; tỷ trọng đóng góp của khối KTTN vào GDP đến năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 đến 65%; năng suất lao động tăng khoảng 4 đến 5%/năm trong giai đoạn 2016-2025; trình độ phát triển của DNTN đạt tốp ASEAN-4; nhiều DNTN tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Đại hội Đảng XIII (2021) tiếp tục khẳng định: “KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm”, “phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP đạt 60 đến 65%”; tổng vốn đầu tư xã hội bình quân đạt 33 đến 35% GDP”. Nghị quyết 45/NQCP ngày 31/3/2023 về Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10- NQ/TW đưa ra các mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp, trong đó có 60 đến 70 nghìn DN quy mô vừa và lớn; đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu DN; khoảng 35 đến 45% DNTN có hoạt động đổi mới sáng tạo. Hình thành và phát triển nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có tiềm lực, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế”.

Tiếp tục khơi mở các thị trường mới cho hàng Việt.

Tiếp tục khơi mở các thị trường mới cho hàng Việt.

Từ Đại hội Đảng X (2006) đến nay, phát triển kinh tế tư nhân trở thành "một động lực quan trọng của nền kinh tế" là chủ trương xuyên suốt được Đảng và Nhà nước quan tâm.

Dây chuyền lắp ráp xe bus của Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải. (Ảnh: HẢI NAM)

Dây chuyền lắp ráp xe bus của Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải. (Ảnh: HẢI NAM)

Khối kinh tế tư nhân Việt Nam là khu vực kinh tế ngoài khu vực kinh tế Nhà nước, bao gồm 3 thành phần chính: doanh nghiệp tư nhân, kinh tế cá thể (hộ kinh doanh) và kinh tế tập thể (chủ yếu là hợp tác xã).

2. Vai trò và đóng góp của kinh tế tư nhân Việt Nam

- Thứ nhất, quy mô và hiệu quả hoạt động tăng trưởng tích cực:

+ Về DNTN, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính), số lượng DN thành lập mới trung bình trong giai đoạn 2019-2024 là 143,5 nghìn DN/năm, gấp 1,3 lần số DN thành lập mới trong giai đoạn 2014-2018; vốn đăng ký bình quân/DN thành lập mới ở mức 12,13 tỷ đồng/DN (đặc biệt năm 2020 đạt kỷ lục 16,6 tỷ đồng/DN thành lập mới). Số lượng DNTN đến cuối năm 2024 đạt 930 nghìn DN, chiếm 98,9% tổng số DN (hơn 940.000) của cả nước. Theo Sách trắng DN 2024, giai đoạn 2019-2022, tốc độ tăng vốn bình quân của DNTN đạt 12,3%/năm, gấp 2,1 lần khu vực DNNN (6%/năm); doanh thu thuần của DNTN gấp 5,2 lần so với DNNN [riêng tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình của tốp 500 DNTN tăng trưởng nhanh (FAST500) giai đoạn 2021-2024 đạt 23,5%, cao hơn trung bình của DN nói chung 22%; chiếm 60% tổng nguồn vốn và chiếm 61,3% tổng tài sản của toàn DN Việt Nam]. Quy mô tổng tài sản của DNTN năm 2022 đạt 10,1 triệu tỷ đồng, gấp 2,7 lần so với tổng tài sản của DNNN. 2

+ Về hộ kinh doanh (HKD), cá nhân kinh doanh: theo Niên giám thống kê (2023), Việt Nam có 5,1 triệu HKD phi nông nghiệp (số liệu cập nhật đến hết năm 2024 ước tính khoảng 5,2 triệu, theo Nhóm Nghiên cứu), tăng 7% so với năm 2015; gấp 5,6 lần số DNTN (930 nghìn DN). Theo VEPR (2021), đến hết năm 2020, quy mô vốn kinh doanh bình quân của HKD đạt 181 triệu đồng/hộ, gấp 3 lần năm 2007; quy mô tài sản của HKD bình quân gần 114 triệu đồng/hộ, gấp 2,8 lần năm 2007. Cần lưu ý rằng đến hết năm 2024, trong số 5,2 triệu HKD đó, có khoảng 80.000 HKD nộp thuế theo phương pháp kê khai và khoảng 2,02 triệu HKD nộp thuế khoán, còn lại hơn 3 triệu HKD, cá nhân kinh doanh chưa đăng ký kinh doanh.

Xã viên Hợp tác xã Nông nghiệp Quyết Thanh Mộc Châu (Sơn La) chăm sóc rau.

Xã viên Hợp tác xã Nông nghiệp Quyết Thanh Mộc Châu (Sơn La) chăm sóc rau.

+ Về hợp tác xã (HTX), theo Sách trắng HTX Việt Nam 2024, đến cuối năm 2023, Việt Nam có 31,8 nghìn HTX có đăng ký theo Luật HTX, gấp 1,6 lần năm 2016; trong đó HTX nông nghiệp chiếm gần 50%, tốc độ tăng trưởng số HTX thành lập mới là 4,7% trong giai đoạn 2017-2023; số HTX có kết quả sản xuất kinh doanh năm 2022 là 15,8 nghìn HTX, gấp 1,22 lần năm 2016, tỷ lệ HTX có lãi chiếm 49%.

- Thứ hai, đóng góp lớn vào tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội: Theo NGTK 2023, trong giai đoạn 2020-2023, KTTN đóng góp trung bình 50,3% GDP, cao nhất trong 3 khu vực kinh tế (cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước với mức đóng góp 20,87% và khu vực FDI đóng góp 20,3%1 ).

Từ năm 2021, Tổng cục thống kê (TCTK) không công bố chi tiết đóng góp của các thành phần trong khu vực KTTN. Theo tính toán của Nhóm nghiên cứu, DNTN đóng góp 24,17% GDP bình quân giai đoạn 2020-2023, hộ kinh doanh đóng góp khoảng 23,19% GDP2 , kinh tế tập thể (chủ yếu là HTX) đóng góp khoảng 2,94% GDP. KTTN chiếm 57,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; đóng góp 30% ngân sách nhà nước (tốp 100 DNTN lớn nhất đóng 30% thu ngân sách nhà nước của DNTN, nhiều DNTN nộp ngân sách nhà nước trên 1.000 tỷ đồng; 13 DNTN vốn hóa trên 1 tỷ USD trên TTCK Việt Nam…).

Kinh tế tư nhân đóng góp quan trọng cho an sinh xã hội.

- Thứ ba, đã hình thành nhiều DNTN thương hiệu mạnh, có quy mô lớn, vươn tầm quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực mới, quan trọng của nền kinh tế Tính đến năm 2024, đã 190 DN với gần 360 sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia; đã hình thành một số DN, tập đoàn lớn trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như viễn thông, tài chính-ngân hàng, ô-tô, vật liệu xây dựng, bất động sản, thực phẩm, bán lẻ…, góp phần khẳng định vị thế và uy tín, thương hiệu của DN Việt Nam Nam trên thị trường quốc tế như Vinamilk, FPT, Vingroup, Hòa Phát, Trường Hải, Masan, TH, Vietjet... Nhiều DNTN đã đạt được các giải thưởng, danh hiệu cao quý trong nước và quốc tế như tốp 500 doanh nghiệp lớn nhất của ASEAN (Fortune SEA 500); tốp 100 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam; tốp 500 thương hiệu lớn nhất, tốp 1.000 thương hiệu uy tín toàn cầu, tốp 500 ngân hàng mạnh nhất châu Á-Thái Bình Dương như: Techcombank, VPBank, ACB, Sacombank, TPBank, VIB...; 2 DN đoạt Giải thưởng Chất lượng quốc tế châu Á-Thái Bình Dương (CTCP thực phẩm sữa TH, CTCP nước giải khát yến sào Khánh Hòa); 5 chủ DNTN lọt tốp tỷ phú thế giới là Vingroup, Vietjet, Hòa Phát, Techcombank, Masan (Forbes, cập nhật tháng 3/2025).

- Thứ tư, KTTN đóng góp quan trọng cho an sinh xã hội, giải quyết việc làm Theo Tổng cục Thống kê, KTTN tạo việc làm cho 82% tổng số lao động trong nền kinh tế, trong đó DNTN thu hút 9,1 triệu lao động (chiếm 49,6% tổng số lao động chính thức của KTTN4 ); HKD thu hút được 9,1 triệu lao động chính thức (chiếm 49,6%); HTX thu hút 163 nghìn lao động (chiếm 0,9%). Theo Báo cáo VPE500 năm 2023 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nay là Bộ Tài chính), 500 DNTN lớn nhất Việt Nam tuy chỉ chiếm 0,075% về số lượng song tạo việc làm cho 12% lao động của DNTN, quy mô lao động gấp 160 lần DNTN nói chung trong giai đoạn 2019-2021. Một số DNTN đầu tư mạnh mẽ vào R&D, đào tạo, nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn của lao động. Ngoài ra, khu vực KTTN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ cộng đồng. Theo VCCI, trong năm 2020, các DNTN đã đóng góp hơn 1 tỷ USD vào các hoạt động từ thiện và an sinh xã hội.

- Thứ năm, tiên phong đổi mới sáng tạo, từng bước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và bước đầu hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp:

+ Về tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, theo VCCI (2021), có khoảng 36% DN Việt tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu (nếu tính cả DN FDI thì tỷ lệ này là 52,3%); tỷ lệ nội địa hóa một số ngành (dệt may, da giầy, chế biến thực phẩm…) đạt 55%.

+ Về đổi mới sáng tạo-chuyển đổi số, chỉ số trình độ phát triển doanh nghiệp 5 (chỉ số thành phần của chỉ số GII6 ) năm 2024 xếp hạng 46/133 thế giới và 5/10 ASEAN tăng 27 bậc so với năm 2017, trong đó, đổi mới sáng tạo có mức độ cải thiện mạnh mẽ nhất (xếp hạng 41/133, tăng 59 bậc); 43% DNNVV sử dụng nền tảng số của Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số (SMEdx)7 , trong đó khoảng 20 đến 22% DN có kế hoạch triển khai chuyển đổi số và sẵn sàng ứng dụng AI trong hoạt động sản xuất kinh doanh; tỷ lệ đầu tư của DN cho R&D/doanh thu ở mức 1,6%, gấp 5,3 lần mức 0,3% năm 2021, đóng góp 62% tổng chi quốc gia cho R&D, tương đương các nước phát triển thế giới và ASEAN8 (kỳ vọng sẽ tiếp tục được đẩy mạnh với sự hỗ trợ lên đến 30% chi phí R&D của DN lớn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư theo Quyết định 182/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024); số lượng phát minh, sáng chế của DN chiếm 20 đến 25% tổng số lượng sáng chế của chủ thể Việt Nam, nhiều phát minh sáng chế kết hợp giữa DN và các Viện nghiên cứu có tính ứng dụng cao, nâng cao hiệu quả kinh doanh; DN công nghệ số năm 2024 đạt 74.000 DN, gấp 3 lần năm 2016, tỷ lệ DN công nghệ số/dân số cao nhất trong số các nước đang phát triển.

+ Về phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, theo StartupBlink9 (2024), Việt Nam đứng 56/100 thế giới và thứ 5/10 ASEAN về hệ sinh thái khởi nghiệp, đứng thứ 31/100 thế giới về số lượng startup với gần 4.000 DN startup; 210 quỹ đầu tư mạo hiểm; 4 “kỳ lân” công nghệ; 1.400 tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp; hơn 20 trung tâm khởi nghiệp sáng tạo; thu hút vốn startup xếp thứ 3/10 ASEAN (sau Singapore và Indonesia).

3.Sáu rào cản, khó khăn chính đối với KTTN

- Thứ nhất, nhiều chỉ tiêu về phát triển KTTN chưa đạt mục tiêu, kế hoạch: Số lượng DNTN chưa đạt theo NQ10-NQ/TW (hết năm 2024 mới có hơn 940 nghìn DN, chưa đạt mục tiêu đến năm 2020 có 1 triệu DN hay 2025 có 1,5 triệu DN); tỷ lệ DN gia nhập/rút lui giảm dần từ mức 3,9 lần năm 2019 xuống mức 1,9 lần năm 2024; việc chuyển đổi HKD thành DN nhỏ còn chậm; tỷ lệ DNTN thua lỗ ở mức cao (47,1% trong giai đoạn 2019-2022, cao nhất trong 3 khu vực kinh tế). Quy mô DN còn nhỏ (94% là DN nhỏ và siêu nhỏ, chỉ 2,6% là DN lớn). Năng suất lao động (NSLĐ) của KTTN thấp nhất trong 3 khu vực (NSLĐ của DNTN chỉ bằng 60% NSLĐ chung của khu vực DN, NSLĐ của HKD ước chỉ bằng 34% NSLĐ chung của DN); hiệu quả đầu tư thấp hơn 1,2 lần hiệu quả đầu tư chung...

- Thứ hai, còn khó khăn về tiếp cận đất đai, tài chính, dự án, chương trình trọng điểm:

Theo IFC (2023), doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận đất đai dẫn đến thiếu tài sản bảo đảm khi vay vốn ngân hàng, từ đó dẫn tới khó tiếp cận vốn vay. Theo PCI (2023), điểm số trung bình chỉ số Tiếp cận đất đai chỉ đạt 6,75 điểm, giảm so với mức 6,94 điểm năm 2022 và 7,01 điểm năm 2021. Tỷ lệ doanh nghiệp không gặp trở ngại về tiếp cận đất đai hoặc mở rộng mặt bằng kinh doanh đã liên tục giảm từ 55,2% năm 2021 xuống 48% năm 2022 và 40,7% năm 2023; tỷ lệ doanh nghiệp phải trì hoãn hoặc hủy bỏ kế hoạch kinh doanh do gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục hành chính đất đai vẫn ở mức 73% vào năm 2023, trong khi năm 2022 và 2021 lần lượt ở mức 42,9% và 53,9% (năm 2024, có thể đã cải thiện hơn khi 3 luật mới – đất đai, nhà ở và kinh doanh bất động sản có hiệu lực từ ngày 1/8/2024). Rất ít DN tư nhân được tham gia các dự án, chương trình quốc gia lớn (trừ một số dự án đường cao tốc, sân bay, cảng biển…)

Theo kết quả khảo sát DN của Cục thống kê (quý 4/2024, mẫu khảo sát trên 29 nghìn DN)10, 68% đánh giá khó khăn về tài chính là một trong những rào cản lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó, nổi cộm nhất là nợ đọng kinh doanh (26,3% DN khảo sát); khó khăn tài chính (18,5%); lãi suất vay vốn còn cao (17,2%); tiếp cận vốn vay (5,6%). (Cần lưu ý rằng, năm 2024, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp để duy trì mặt bằng lãi suất thấp; theo Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay năm 2024 đã giảm khoảng 1,24% so với cuối năm 2023, tín dụng tăng trưởng 15,08% so với năm 2023 nên kết quả khảo sát về vấn đề lãi suất vay vốn cao có thể chưa phản ánh đúng thực trạng và một phần là do tâm lý của người đi vay luôn muốn lãi suất thấp).

Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư của KTTN còn thấp, hệ số ICOR (tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng) của khu vực này giai đoạn 2017-2024 là 10,1 lần, gấp 1,6 lần khu vực FDI và 1,2 lần hệ số ICOR chung dù vẫn thấp hơn ICOR của khu vực Nhà nước (13,6 lần).

- Thứ ba, quản trị DNTN còn hạn chế: hầu hết các DN tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ kinh doanh, chủ DN điều hành chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm, chưa qua đào tạo và ít người có bằng cấp chuyên môn nên quản trị DN còn hạn chế. Theo Báo cáo Quản trị công ty ASEAN (ACGS) 2024, điểm số quản trị công ty của DN Việt Nam dù đã cải thiện điểm số lên mức trung bình 57 điểm năm 2022, song vẫn là mức thấp nhất khu vực ASEAN, thấp xa so với các nước dẫn đầu như Thái Lan, Malaysia (ở mức 97 đến 98 điểm); chỉ khoảng 5% DNTN hiểu và thực hành quản trị DN tốt; ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, tham gia các chuỗi giá trị, thu hút đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.

- Thứ tư, nhiều thách thức trong chuyển đổi kép (xanh hóa và số hóa): theo Báo cáo thường niên Chuyển đổi số doanh nghiệp 2023 và CIEM,  gần 80% số DN vẫn đang trong quá trình tìm hiểu về kinh tế số, kinh tế xanh, chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của đổi mới sáng tạo với phát triển bền vững; mới có 14% DN niêm yết lập báo cáo ESG; mới có 15% DNTN niêm yết nhận thức rõ về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với hoạt động kinh doanh; mới chỉ có 12% ban hành chính sách và thực hành ESG; 5% công bố các báo cáo và mục tiêu định lượng bền vững song vẫn còn cách xa các tiêu chuẩn quốc tế… Theo Cisco (2020) và khảo sát của Ban phát triển kinh tế tư nhân (7/2024), một số rào cản chính đối với DNTN Việt Nam trong chuyển đổi kép là: trình độ nhân lực (đặc biệt nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ năng cao), nền tảng công nghệ/giải pháp kỹ thuật phù hợp, hạn chế về tài chính, thiếu tư duy chiến lược về chuyển đổi xanh và số, mức độ tiếp cận thông tin, dữ liệu về chuyển đổi kép…

Chuyển đổi xanh sẽ giúp doanh nghiệp logistics nâng cao sức cạnh tranh.

Chuyển đổi xanh sẽ giúp doanh nghiệp logistics nâng cao sức cạnh tranh.

- Thứ năm, đóng góp của hộ kinh doanh vào thu ngân sách Nhà nước, việc làm và năng lực quản trị còn rất hạn chế: Theo Cục Thuế, mới có 2,1 triệu hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ thuế, còn lại 3,1 triệu hộ kinh doanh chưa đăng ký và vẫn nằm ngoài sự quản lý chính thức, vì vậy hộ kinh doanh chỉ đóng góp 1,6% NSNN (còn lại chủ yếu là thuế khoán). Theo Economica 2022, tỷ lệ lao động phi chính thức (không tham gia BHXH) của hộ kinh doanh, HTX còn cao (80-90%); quy mô vốn, doanh thu nhỏ; thu nhập trung bình của hộ kinh doanh thấp hơn thu nhập bình quân của người lao động trong DNTN (dù thu nhập người lao động trong DNTN bình quân giai đoạn 2019-2022 chỉ khoảng 8,9 triệu đồng/tháng thấp nhất trong 3 khu vực); tình trạng vi phạm pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh, ô nhiễm môi trường, gian lận thương mại... của hộ kinh doanh vẫn khá phổ biến, ảnh hưởng đến niềm tin của xã hội đối với KTTN. Năng lực quản trị còn nhiều hạn chế, thiếu minh bạch, hoạt động kinh doanh manh mún, thiếu chiến lược dài hơi, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực tài chính.

- Thứ sáu, năng lực cạnh tranh, chất lượng nguồn nhân lực, trình độ công nghệ và mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của DN Việt Nam nói chung và DNTN nói riêng còn nhiều hạn chế

Mặc dù có sự cải thiện về năng lực cạnh tranh và thúc đẩy đổi mới sáng tạo song Việt Nam chưa có DNTN đạt được tầm cỡ thế giới; các thương hiệu Việt Nam vẫn có giá trị thấp hơn các thương hiệu của nhiều quốc gia ASEAN.

Chất lượng, kỹ năng lao động vẫn là vấn đề thách thức lớn đối với DN Việt nói chung và DNTN nói riêng trong chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của DN dù có cải thiện khá tốt (đạt khoảng 30% năm 2024, cao hơn mức 15% năm 2009) song vẫn thấp hơn so với mức trung bình 40-70% của ASEAN. Chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số (lao động số/tổng lao động Việt Nam năm 2023 mới ở mức 1,1%, thấp hơn Ấn Độ 1,8%, Hàn Quốc 2,5%, Mỹ 4%; riêng các DN ngành CNTT đang thiếu hụt khoảng 150 đến 200 nghìn nhân lực chất lượng cao11). Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 2020 (GCI 4.0-2020), 2 trụ cột thị trường lao động và kỹ năng (skills) vẫn ở vị trí thấp so với thế giới và ASEAN (“thị trường lao động” ở vị trí 83/1417/9 ASEAN; “kỹ năng” ở vị trí 93/141 7/9 ASEAN).

Theo Báo cáo VPE500 (2021) và Cục thống kê, chỉ khoảng 6% DN lớn và vừa đủ tiêu chuẩn là nhà cung cấp (vendor) cấp 1-3 của các đối tác nước ngoài (trong đó chỉ có khoảng 5.000 DN, tương đương 0,54% DN Việt thực sự tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu); còn lại 94% là DN nhỏ và siêu nhỏ không đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu hoặc chỉ ở công đoạn có hàm lượng giá trị gia tăng thấp; tỷ lệ DNTN tham gia kết nối với đối tác nước ngoài chỉ khoảng 14% (thấp hơn Malaysia 46% và Thái Lan 30%). Thêm vào đó, tỷ lệ nhập khẩu đầu vào/xuất khẩu chiếm tới 70%, cao hơn mức trung bình thế giới 17%; tỷ lệ nội địa hóa chỉ khoảng 20%, thấp hơn so với mức trung bình thế giới 27%; tỷ lệ nội địa hóa của một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu chủ chốt còn thấp như điện tử 20%, ô tô 9%...

Theo WB (2023), đầu tư cho R&D/doanh thu của DN Việt Nam dù có cải thiện (hiện đang ở mức 1,6%) song vẫn thấp hơn nhiều so với các nước như Malaysia (2,6%), Philippines (3,6%), Ấn Độ (5%), Hàn Quốc (10%), Nhật Bản (50%)12; số lượng nhà nghiên cứu/1 vạn dân của Việt Nam mới chỉ đạt 7,76 người, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (90,97 người), Singapore (74,89 người), Thái Lan (20,24 người), Trung Quốc (17,03 người), số người nhà nghiên cứu trong khu vực KTTN chỉ chiếm 14% tổng số lượng nhà nghiên cứu của Việt Nam.

Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp, trong đó có 60 đến 70 nghìn DN quy mô vừa và lớn; đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu DN; khoảng 35 đến 45% DN tư nhân có hoạt động đổi mới sáng tạo. Hình thành và phát triển nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có tiềm lực, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế”

Về đổi mới công nghệ, trình độ công nghệ sản xuất của DNTN còn thấp (công nghệ tiên tiến chỉ chiếm 10%, công nghệ trung bình chiếm 38%, còn lại là công nghệ lạc hậu và rất lạc hậu); có khoảng 7% DN tham gia khảo sát gặp khó khăn do thiết bị, công nghệ lạc hậu, dẫn đến khó khăn khi cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.

- Nguyên nhân khách quan:

(i) Kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, xung đột địa chính trị, chiến tranh, cạnh tranh thương mại-công nghệ, gián đoạn chuỗi cung ứng, bảo hộ thương mại, thiên tai, lũ lụt....(theo Báo cáo VPE500 năm 2023, có tới 158 DN - tương đương 31,6% DN rời khỏi Top VPE 500 trong giai đoạn 2020-2021 do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, đặc biệt trong các lĩnh vực BĐS, xây dựng, thương mại, dệt may, thực phẩm...);

(ii) Sức ép cạnh tranh ngày càng lớn, nhất là từ các tập đoàn đa quốc gia, DN bên ngoài;

(iii) Các quy định, tiêu chuẩn khắt khe hơn về xanh hóa, bảo vệ môi trường, nguồn gốc xuất xứ... thách thức mục tiêu tăng trưởng, phát triển bền vững của DN.

- Nguyên nhân chủ quan:

(i) Nhận thức, quan điểm, tư duy của cơ quan quản lý còn chưa đúng, chưa chuẩn (đôi khi còn “miệt thị”) dẫn đến có sự phân biệt đối xử, hành xử vẫn có sự thiếu công bằng nhất định đối với KTTN;

(ii) Môi trường đầu tư-kinh doanh dù được cải thiện nhưng vẫn còn rất bất cập, chưa thực sự bình đẳng (vẫn có sự phân biệt đối xử giữa DN nhỏ và vừa và DN lớn, giữa DNTN và DNNN trong việc tiếp cận các nguồn lực, các dự án lớn; thủ tục cấp phép thành lập DN, thuế, phí, đất đai, đăng ký quyền sở hữu, tiếp cận vốn, thanh-kiểm tra, quản lý thị trường, phòng cháy-chữa cháy… còn phức tạp, thiếu đồng bộ, nhất quán khiến chi phí kinh doanh còn cao, có thể lên tới 10% doanh thu, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DN nói chung và KTTN nói riêng (Việt Nam hiện có 6.200 điều kiện kinh doanh và 5.000 thủ tục hành chính, thời gian đăng ký kinh doanh ở Việt Nam mất 15 ngày trong khi ở Singapore là 1,5 ngày, Thái Lan là 4,5 ngày);

(iii) Quá trình chuyển đổi hộ kinh doanh thành DN còn nhiều khó khăn do thiếu cơ chế hỗ trợ và tư vấn cần thiết;

(iv) Tư duy, tầm nhìn, kiến thức, quản trị và sự chủ động của DN, hộ kinh doanh còn nhiều hạn chế;

(v) Nguồn lực về tài chính, công nghệ, nhân lực còn hạn chế so với yêu cầu phát triển;

(vi) Khả năng liên kết giữa các khối DN, giữa DNTN lớn và DN vừa và nhỏ còn yếu (chỉ 20% DNTN tham gia chuyển giao công nghệ với DN FDI; một sốhiệu ứng “chèn lấn thị trường” của VPE-500 với DNTN nói chung13); thiếu kết nối giữa DN với các tổ chức hỗ trợ đổi mới sáng tạo, viện nghiên cứu, đào tạo, từ đó ảnh hưởng tới khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh, sức chống chịu, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế của khu vực KTTN.

Cần cơ chế nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp điện tử

Cần cơ chế nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp điện tử

Hoa Kỳ có nhu cầu với nhiều mặt hàng của Việt Nam.

Hoa Kỳ có nhu cầu với nhiều mặt hàng của Việt Nam.

Chế biến là giải pháp giúp nâng cao giá trị xuất khẩu rau quả.

Chế biến là giải pháp giúp nâng cao giá trị xuất khẩu rau quả.

4. Quan điểm, vai trò và kinh nghiệm phát triển KTTN của Trung Quốc

4.1. Quan điểm và định hướng về KTTN của Trung Quốc:

Kinh tế tư nhân đã trở thành một phần không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế của Trung Quốc kể từ khi bắt đầu cải cách năm 1978, vai trò của KTTN không ngừng được khẳng định, đóng góp tích cực vào sự phát triển KTXH Trung Quốc. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Trung Quốc đối với kinh tế tư nhân hiện nay là “Ổn định kinh tế - hài hòa xã hội”, “vừa hỗ trợ vừa kiểm soát”; bảo đảm khai thác các lợi thế của khu vực kinh tế tư nhân đồng thời bảo đảm sự phù hợp với các mục tiêu và khuôn khổ pháp lý, hướng tới cân bằng giữa phát triển kinh tế và duy trì ổn định chính trị.

Các định hướng chính hiện đã và đang được đẩy mạnh từ Đại hội XIX (2017) và tiếp nối trong Đại hội XX (2022) của Đảng Cộng sản Trung Quốc bao gồm: (i) Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: đây là nhóm doanh nghiệp dễ bị tổn thương nhất nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới; (ii) Phát triển các ngành công nghệ cao: Chính phủ sẽ tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là các lĩnh vực chiến lược như trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo và bán dẫn; (iii) Kiểm soát chặt chẽ các ngành tiềm ẩn nhiều rủi ro: những ngành như tài chính, học thêm và dạy thêm bằng hình thức trực tuyến tràn lan, không kiểm soát và truyền thông có thể sẽ tiếp tục bị giám sát chặt chẽ để tránh rủi ro hệ thống và hệ lụy xã hội; (iv) kiến tạo môi trường kinh doanh minh bạch và ổn định là yếu tố then chốt để bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực này trong tương lai.

Tại Hội nghị chuyên đề với các doanh nhân hàng đầu của Trung Quốc tháng 2/2025, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã kêu gọi các doanh nhân nên vững vàng định vị mình là những người xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa Trung Quốc. Ông kêu gọi các DNTN theo đuổi sự phát triển chất lượng cao và tăng cường sự tự chủ trong đổi mới sáng tạo; đồng thời cam kết Chính phủ sẽ tiếp tục tạo điều kiện để các DNTN phát triển, tháo gỡ các rào cản để DNTN có thể mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây được coi là thông điệp và ủng hộ của người lãnh đạo cao nhất Trung Quốc tới các doanh nhân.

3.2. Vai trò của KTTN trong phát triển kinh tế-xã hội Trung Quốc

Trong hơn 40 năm qua, khu vực KTTN Trung Quốc đã gia tăng nhanh chóng từ khoảng 155 nghìn hộ kinh doanh (năm 1978) lên hơn 55 triệu DNTN và 124 triệu hộ kinh doanh (năm 2024).

Vai trò và đóng góp đáng kể của khu vực kinh tế tư nhân (tính đến hết năm 2024) đối với kinh tế Trung Quốc được thể hiện cụ thể qua các chỉ tiêu sau: (i) Về việc làm, khu vực tư nhân chiếm 80% số lượng việc làm tại thành thị, giúp ổn định xã hội trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế mạnh mẽ; (ii) Tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách: khu vực KTTN đóng góp 60% GDP50% NSNN của Trung Quốc, theo Chính phủ Trung Quốc, tháng 12/2024), (iii) Về đổi mới - sáng tạo: DNTN đã trở thành trụ cột chính của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Trung Quốc, chiếm hơn 92% số doanh nghiệp, đóng góp 70% các đột phá công nghệ cao quốc gia và hơn 80% trong tổng số 14.600 công ty “khổng lồ nhỏ” (“little giants”) được công nhận về chuyên môn và khả năng đổi mới; (iv) các hộ kinh doanh cũng nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, xu thế mới của sự phát triển công nghệ giúp phát triển mô hình kinh doanh mới thông qua thương mại điện tử, bán hàng trực tuyến, số hóa kinh doanh…

Công nhân kiểm tra động cơ tại nhà máy Tập đoàn ô-tô Chenggong, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. (Ảnh: HỒ QUÂN)

Công nhân kiểm tra động cơ tại nhà máy Tập đoàn ô-tô Chenggong, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. (Ảnh: HỒ QUÂN)

3.3. Một số kinh nghiệm và giải pháp phát triển KTTN của Trung Quốc

Kinh tế tư nhân của Trung Quốc phát triển và trở thành lực lượng nòng cốt của nền kinh tế nhờ: (i) quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước; (ii) các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ đa dạng, thường xuyên cập nhật; và (iii) các biện pháp kiểm soát phù hợp. Cụ thể như sau:

- Thứ nhất, Đảng và Nhà nước Trung Quốc tiếp tục khẳng định vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và tiếp tục tạo điều kiện cho khu vực này phát triển mạnh mẽ, cụ thể: (i) Đảng và Nhà nước Trung Quốc thừa nhận rằng các doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò quan trọng đối với sự đổi mới, việc làm và động lực kinh tế; (ii) Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng các chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân (bao gồm đối với DNTN và hộ kinh doanh) sẽ vẫn nhất quán bảo đảm vai trò không thể thiếu của khu vực này trong nền kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc; (iii) khuyến khích các DNTN đóng góp vào các mục tiên lớn quốc gia (như tự chủ về công nghệ, ổn định xã hội...)

- Thứ hai, về các chính sách khuyến khích và hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân, thay đổi quan điểm từ “kiểm soát” sang “kiến tạo” của Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách khác nhau để “cởi trói và khuyến khích phát triển của các DNTN nhằm xử lý các điểm nghẽn cho các doanh nghiệp tư nhân: tiếp cận vốn, pháp lý, quy định và các thủ tục hành chính, niềm tin giữa doanh nghiệp tư nhân với chính quyền. Sáu(6) chính sách cụ thể như sau:

(i) Giảm gánh nặng tài chính thông qua chính sách giảm thuế, phí và cung cấp các khoản vay ưu đãi nhằm hỗ trợ DNTN và hộ kinh doanh trong thời gian đầu khởi nghiệp hoặc thời kỳ khó khăn chung (thí dụ như trong đại dịch Covid-19). Các chính sách ưu đãi thuế cũng được mở rộng, bao gồm giảm thuế cho DNNVV, hỗ trợ đặc biệt cho các công ty công nghệ cao và nới lỏng quy định tiếp cận thị trường trong một số ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đẩy mạnh kiểm soát các hoạt động kinh doanh không công bằng (như: tình trạng chậm thanh toán của cơ quan nhà nước đối với các nhà cung cấp tư nhân và hạn chế các hành vi độc quyền gây bất lợi cho doanh nghiệp nhỏ).

(ii) Thành lập và vận hành các Quỹ đầu tư mạo hiểm do Nhà nước đứng đầu (GGF - Chinese Government Guidance Funds) kết hợp vốn nhà nước và tư nhân để hỗ trợ các ngành công nghiệp phù hợp với các ưu tiên của quốc gia, chẳng hạn như công nghệ và đổi mới sáng tạo (đặc biệt là các ngành sản xuất mới như sản xuất phương tiện giao thông thông minh, trí tuệ nhân tạo (AI), robot…).

(iv) Hoàn thiện thể chế với khu vực KTTN (bao gồm DNTN và HKD) nhằm bảo đảm cạnh tranh công bằng và bảo vệ quyền của các DNTN và HKD, qua đó thúc đẩy môi trường kinh doanh thuận lợi hơn 14.

(v) Kích cầu tiêu dùng nội địa, như chương trình trợ cấp cho người thu nhập thấp hoặc khuyến khích mua sắm, từ đó gián tiếp hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực bán lẻ và sản xuất hàng tiêu dùng.

(vi) Khuyến khích các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân, với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy quy mô hoạt động và hội nhập vào nền kinh tế hiện đại (như đã nêu).

Thứ ba, song song với các biện pháp hỗ trợ, chính phủ Trung Quốc đã ban hành các chính sách có tính chất kiểm soát, hạn chế đối với khu vực KTTN để điều tiết thị trường và giảm rủi ro hệ thống: (i) Tăng cường giám sát các ngành lĩnh vực nhiều rủi ro, bảo đảm bảo mật dữ liệu, các hoạt động chống cạnh tranh và ổn định tài chính; (ii) Quản lý tiếp cận thị trường và kiểm soát vốn. Áp dụng các hạn chế đối với đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực được coi là nhạy cảm hoặc chiến lược để bảo vệ lợi ích quốc gia; duy trì sự ổn định tài chính và ngăn ngừa rủi ro hệ thống.

5.Tám kiến nghị, giải pháp đột phá phát triển KTTN Việt Nam 2025-2030

- Thứ nhất, cần thống nhất về quan điểm, nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân; coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế, là lực lượng nòng cốt trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tại Việt Nam; loại bỏ tư tưởng "Trọng công hơn tư" , nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước là “phục vụ, trân trọng” thay vì định kiến, hẹp hòi, mở ra kỷ nguyên mới của KTTN Việt Nam, góp phần xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập TB cao năm 2030 và thu nhập cao năm 2045.

- Thứ hai, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế: (i) Nghiên cứu sớm ban hành Nghị quyết mới của TW thay thế Nghị quyết 10/2017/NQ/TW về KTTN, đồng bộ với việc luật hóa của QH và các nghị quyết, quyết định của Chính phủ…trên cơ sở tiếp thu thành quả thời gian qua, kinh nghiệm quốc tế (Trung Quốc), đồng thời phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 57/NQ-TW ngày 22/12/2024 về phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, với tinh thần “đột phá, kiến tạo, giảm rào cản, giảm rủi ro pháp lý và chi phí hành chính, tăng khả năng tiếp cận nguồn lực, thúc đẩy ứng dụng KHCN, chuyển đổi kép, nâng cao ý thức DN dân tộc, thượng tôn pháp luật, quản trị bài bản, minh bạch; tạo hệ sinh thái cho từng nhóm DN…”;

(ii) Rà soát, sửa đổi Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa (2017), có phân nhóm DN để thiết kế quy định pháp lý phù hợp;

(iii) Có chiến lược phát triển KTTN, chú trọng làm rõ vai trò của Nhà nước (hỗ trợ DNTN theo mức độ đóng góp như khuyến nghị của WB 2024), vai trò của thị trường và bản thân DN, hộ kinh doanh, đặc biệt là chiến lược, lộ trình, giải pháp tăng tính tự chủ, tự cường và khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu của DN Việt;

(iv) Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá về phát triển DN nói chung và DNTN phù hợp với chuẩn mực quốc tế, có khả năng so sánh với ASEAN và quốc tế;

(v) Định kỳ hàng năm nên rà soát, đánh giá các chỉ tiêu phát triển DN nói chung (DNTN nói riêng), báo cáo các cấp có thẩm quyền về tình hình triển khai và đề xuất điều chỉnh các chỉ tiêu kịp thời, phù hợp bảo đảm khả năng hoàn thành;

(vi) Tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý về chuyển đổi kép (xanh và số) như cơ chế thử nghiệm (Sandbox) cho Fintech, kinh tế tuần hoàn và các mô hình kinh doanh mới; ban hành khung pháp lý về quản lý tài sản số, tiền kỹ thuật số, danh mục phân loại xanh và xác nhận dự án xanh, thành lập thị trường tín chỉ carbon….để các bộ, ngành, địa phương, DN có cơ sở thực hiện.

- Thứ ba, thúc đẩy quá trình chuyển đổi hộ kinh doanh thành DN:

(i) sớm ban hành Nghị định về cơ chế hỗ trợ, khuyến khích HKD chuyển đổi thành DN siêu nhỏ với việc đơn giản hóa thủ tục thành lập DN, cho phép mô hình quản trị đơn giản, gọn nhẹ (không nhất thiết phải có HĐQT, Ban kiểm soát, kế toán trưởng...), cung cấp hỗ trợ về chi phí thành lập DN, miễn thuế thu nhập DN từ 3 đến 5 năm đầu tiên hoạt động, hỗ trợ đào tạo kỹ năng quản trị-điều hành-sổ sách kế toán, hỗ trợ công nghệ (cung cấp phần mềm về quản trị DN, quản lý tài chính...), góp phần tăng cả lượng và chất lực lượng DN;

(ii) Tăng cường cung cấp thông tin về thị trường, chính sách, định hướng hoạt động cho khối này;

(iii) Hỗ trợ kết nối, hợp tác giữa các khối DN, giữa DN (đặc biệt là DN lớn, dẫn đầu) với các hộ kinh doanh, HTX.

- Thứ tư, giải pháp hỗ trợ công nghệ, tài chính, tiếp cận đất đai, chuyển đổi xanh và số của khu vực tư nhân:

(i) Tiến hành cải cách thị trường tài chính nhằm phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, tăng khả năng tiếp cận vốn với chi phí hợp lý hơn, đa dạng hóa sản phẩm-dịch vụ tài chính ngân hàng, phù hợp với nhu cầu của khu vực tư nhân… Theo đó, cần ưu tiên phát triển thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu, quỹ đầu tư) nhằm góp phần đa dạng hóa nguồn vốn, huy động vốn trung-dài hạn của DN, quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán đúng kế hoạch; đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn DN Nhà nước và niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng lượng hàng trên thị trường chứng khoán…

(ii) Nghiên cứu thành lập Quỹ chuyển hỗ trợ chuyển đổi số và chuyển đổi xanh (theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, Nhật Bản…) để hỗ trợ DN đầu tư, đổi mới, tiếp cận công nghệ mới, trong chuyển đổi xanh và số, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh doanh tuần hoàn, thị trường tín chỉ carbon...; sớm thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà nước để định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy dòng vốn đầu tư khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, góp phần đạt mục tiêu 10 “kỳ lân công nghệ” tầm quốc tế vào năm 2030.

(iii) Phát huy vai trò của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF); sớm khởi tạo lại Quỹ bảo lãnh tín dụng DN nhỏ và vừa (khắc phục tình trạng kém hiệu quả của các quỹ bảo lãnh tại các địa phương vừa qua), trợ giúp đắc lực DN nhỏ và vừa nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị trong nước và toàn cầu…

(iv) Thực hiện cơ chế đặt hàng đối với DNTN có tiềm lực tài chính và năng lực quản trị tốt tham gia các dự án chiến lược, quan trọng quốc gia (cùng với nguồn vốn đầu tư công, DN Nhà nước) như đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, năng lượng, hạ tầng số, công nghệ cao, công nghiệp nền tảng...

- Thứ năm, triển khai quyết liệt, hiệu quả chỉ đạo của Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ về cải thiện thực chất môi trường đầu tư-kinh doanh, nhất là cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, 30% chi phí kinh doanh (gồm cả chi phí không chính thức) và 30% thời gian xử lý hành chính, hướng tới mục tiêu thuộc tốp 3 ASEAN về môi trường kinh doanh trước năm 2030 (kinh nghiệm của Thái Lan và Malaysia).

- Thứ sáu, quan tâm hỗ trợ khối tư nhân về thông tin định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, về thông tin thị trường, dự báo thị trường, bối cảnh…; tăng cường truyền thông để khu vực KTTN tuân thủ, thượng tôn pháp luật; có cơ chế, chính sách bảo vệ KTTN trước những cú sốc kinh tế, nhất là trong bối cảnh bất ổn toàn cầu, suy thoái kinh tế và biến động thị trường.

- Thứ bảy, bản thân DN, hộ kinh doanh cần đổi mới tư duy, nâng cao năng lực quản trị, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, bài bản, minh bạch hơn, quan tâm đến tầm nhìn, chiến lược dài hơi hơn, tương hỗ lẫn nhau nhiều hơn và đặc biệt luôn ý thức, hành động gắn với đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và thượng tôn pháp luật.

- Cuối cùng, cần chuẩn hóa thông tin, số liệu thống kê, báo cáo về các khu vực kinh tế nói chung và KTTN nói riêng để có thể hỗ trợ đắc lực cho quá trình ra quyết sách, quản trị và điều hành quốc gia.

Trình bày: Phùng Trang
Ảnh:
Báo Nhân Dân