Bàn về phong cách người Thăng Long - Hà Nội

ND - Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra thành Ðại La và đổi tên Ðại La thành Thăng Long.

Vùng đất Thăng Long thời kỳ này chia thành hai khu vực: Khu vực thứ nhất là nơi Vua thiết triều nằm trong tòa thành xây được gọi là "Thăng Long thành", và khu vực thứ hai bao bọc chung quanh là khu dân cư, nơi làm ăn sinh sống của đủ các hạng sĩ, nông, công, thương được bao bởi một tòa thành đất gọi là "Thăng Long ngoại thành". Sử cũ chép rằng, trong thành có 13 trại, ngoài thành có 61 phường. Thành là chỗ chính quyền và quân đội ở. Phường là chỗ dân ở, làm thủ công và buôn bán. Toàn bộ Thăng Long dài từ Bưởi, Hồ Tây đến tháp Báo Thiên, Hồ Gươm (Hoàng Ðạo Thúy - Hà Nội thanh lịch, 1996). Cả hai khu vực đó gọi là phủ Ứng Thiên, tới năm 1014 gọi là Nam Kinh, cư dân sống ở Thăng Long thời bấy giờ được gọi là người Thăng Long.

Sang đời Trần, Thăng Long lại có tên là Trung Kinh. Năm 1230 được chia thành 61 phường. Ðến triều Hồ, kinh đô mới được xây dựng ở Thanh Hóa có tên gọi là Tây Ðô, Thăng Long được gọi là Ðông Ðô. Dưới thời Minh thuộc, chúng đổi Ðông Ðô thành Ðông Quan. Sang triều Lê xây dựng Lam Kinh còn được gọi là Tây Kinh, Thăng Long đổi thành Ðông Kinh. Ðến triều Mạc, Ðông Kinh trở lại tên gọi là Thăng Long. Năm 1802, Gia Long lên ngôi, đóng đô ở Phú Xuân, Thăng Long vẫn là thủ phủ của Bắc thành (có 11 trấn). Năm 1831, Minh Mạng lấy đất kinh thành cũ gộp với mấy huyện chung quanh của trấn Sơn Nam thượng và trấn Sơn Tây cũ lập thành tỉnh Hà Nội. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hà Nội đã chính thức trở thành Thủ đô của nước Việt Nam độc lập. Từ đây, những cư dân sinh sống ở Hà Nội được gọi là người Hà Nội - tức người dân Thủ đô Hà Nội. Dân số nước ta khi đó hơn 20 triệu người, Thủ đô Hà Nội chỉ khoảng vài chục vạn. Cho đến thập niên 60 của thế kỷ trước, từ trung tâm thành phố xuống đến cuối phố Lò Ðúc đã là vùng nông thôn với nhiều ao hồ và các cánh đồng lúa, trên bờ là các rặng ổi, đến gò Ðống Ða đã là ngoại thành, dân cư rất thưa thớt. Khu vực Văn Chương, Linh Quang sau ga Hà Nội toàn ao hồ. Phương tiện giao thông chủ yếu là xe đạp, được coi là tài sản có giá trị, không phải ai cũng có. Xe đạp lúc ấy có đăng ký hẳn hoi. Sinh viên tốt nghiệp đại học ra trường công tác sau vài ba năm dành dụm mới mua được chiếc xe đạp. Người Hà Nội và những người đến nhập cư sống rất hòa thuận, hầu như không có phân biệt đối xử. Sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp ra trường, bất kể là người Hà Nội hay người các tỉnh khác đều sẵn sàng tuân theo sự phân công của tổ chức hoặc xung phong đến những vùng xa xôi công tác. Thời gian này trật tự xã hội tốt đẹp, nền nếp gia phong có thể nói rất chuẩn mực, được thể hiện từ trong nhà ra đến xã hội. Trong nhà, có khi đến tứ đại đồng đường đều giữ nếp trên kính, dưới nhường, nói năng lễ phép có thưa gửi, không bao giờ được nói trống không. Con cái vâng lời ông bà, bố mẹ. Vợ chồng có gì không phải đóng cửa bảo nhau, ít khi to tiếng. Ngoài xã hội, người có tuổi được kính trọng. Mỗi khi có gì sơ suất nói lời xin lỗi. Ở trường học thể hiện rất rõ sự tôn sư trọng đạo. Học trò lễ phép với thầy giáo, cô giáo... Những điều đó đã nói lên phong cách của người Hà Nội:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An!

Theo cụ Hoàng Ðạo Thúy trong cuốn Hà Nội thanh lịch, Tràng An (Trường An) là nơi ở lâu dài và yên ổn. Ở nước ta, nhà Ðinh và nhà tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư, đến giờ chỗ ấy vẫn gọi là xã Trường Yên (thượng và hạ). Ðời Lý, Tràng An là đất Thăng Long. Người ta bảo: Ðất Thăng Long "địa linh, nhân kiệt", đất thiêng, người giỏi.

Dân Thủ đô ta xưa, hay tự hào mình ở Thủ đô một nước "văn hiến", ở đất "nghìn năm văn vật". Các cụ sống theo nền nếp "lễ giáo" từ nghìn xưa để lại. Xã hội gồm sự liên hệ của những nhóm người: Vua và tôi (dân), cha và con, thầy và trò, anh và em, chồng và vợ, bè và bạn. Người nọ có nhiệm vụ với người kia. Vua được tôn vì chăm dân; nhưng giữa vua và dân thì dân là trọng. Sự mong mỏi của người dân có một thế giới "đại đồng", được "coi trẻ nhà khác như trẻ nhà mình, coi người già nhà khác như người già nhà mình". Ai cũng lo "dạy con" vì sợ rằng "nuôi mà không dạy, thì con gần như cầm, thú". Dạy con bắt đầu từ hiếu, rồi đễ, trung với nước, tín với bạn bè. Lễ là việc có tổ chức, sắp xếp lễ phép. Nghĩa là công bằng, bổn phận phải làm. Liêm là trong sạch. Sĩ là biết xấu hổ. Ngoài lối giáo dục cổ truyền ấy, người ta cũng học đạo đức "bác ái" của Phật và tính "thanh tao" của Lão.

Ðất kinh kỳ có nhiều trường học lớn, có các thầy đạo cao đức trọng như: Mạc Ðĩnh Chi, Chu Văn An, Vũ Tông Phan... nơi diễn ra các khoa thi cao nhất nước. Phường Báo Thiên phía tây Hồ Gươm là nơi đi lại của các văn nhân, sĩ tử. Ðến ngày "bình văn" là các đình, chùa chật ních người đến nghe giảng. Hàng Gai, Hàng Ðào là khu vực của các vị hào hoa, phong nhã. Các làng quanh thành: Kẻ Bưởi, Kẻ Mọc, Kẻ Lủ, Kẻ Mơ... gọi là Kẻ Chợ.

Người Tràng An cần cù, cứng rắn, vẻ thanh lịch đôi lúc hào hoa, yêu văn, yêu hoa, sành mỹ thuật, ăn mặc đơn sơ và trang nhã. Nói lời văn vẻ dễ nghe, dễ hòa hợp với bà con phường, xóm, hay động lòng vì việc nghĩa, tình người, ghét cay ghét đắng những chuyện tục tằn, kệch cỡm, hoạnh họe, lố lăng, đê tiện. Người Tràng An ở với nhau "biết nhịn", "biết nể", "biết ngượng", "biết suy bụng ta ra bụng người". Trong thôn phố có việc là chạy sang thăm hỏi ngay, ở với nhau chu tất, ăn ý không "bỏ được lòng nhau". Tình người được coi trọng, nhà ai có trẻ lạc là chạy đến nhà cụ Phúc Hậu, bận việc gì cụ cũng bỏ đi rao tìm khắp nơi. Khách nhà quê ra, đi mãi, nóng nhọc thì thấy ngay bên đường có vại nước vối ngon với mấy cái bát sạch. Người ta tóm cả cái "thanh", cái "cao", cái "lịch sự" ẩn ý vào hai chữ "thanh lịch". Khi đón bà con các tỉnh về, các khách phương xa đến, người ta nhắc nhau giữ lấy vẻ "thanh lịch của người Tràng An".

"Người Tràng An" (Trường Yên) là người kinh kỳ, Thủ đô. Thanh, trong sáng, không tục, không thô lỗ. Lịch, lịch thiệp, lịch lãm, lịch sự... Phong độ người Hà Nội "thanh lịch".

Ở Sơn Tây, ở Bắc Ninh, mà có khách sang thì bà chủ hay nói với hàng xóm: Nhà tôi có khách Hà Nội! Bà con quý lắm, hay lưu ý đến lời nói, kiểu cách, cả cách ăn mặc của khách.

Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc: "Thanh lịch là chất cơ bản của người Hà Nội. Ðó là lối sống văn hóa. Từ trong ăn mặc, đối nhân, xử thế, từ cách nói năng cho đến hành động, từ trong gia đình đến ngoài xã hội... tất cả phải có văn hóa. Nói cụ thể như mặc thì không nhếch nhác, ăn thì không xô bồ, nói thì không tục tằn. Ngoài xã hội thì giữ chữ tín nghĩa, ứng xử uyển chuyển, mềm mại. Trong gia đình, gia tộc thì kính trên, nhường dưới...".

Lấy người Tràng An làm chuẩn mực cho người Hà Nội, người Thủ đô hôm nay là điều hoàn toàn tự nhiên, là sự kế thừa truyền thống tốt đẹp của văn hóa kinh đô của văn hiến Việt Nam. Tháng 10-1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, hòa bình lập lại, Trung ương về lại Thủ đô, Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của cả nước. Hà Nội là nơi làm việc của các cơ quan Trung ương, nơi tập trung các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị, khoa học, kinh tế, văn hóa cho cả nước. Thời kỳ này, dân số Hà Nội tăng lên một cách đáng kể. Tuy vậy dân số Hà Nội vào thập niên 50, 60 của thế kỷ trước cũng chỉ dừng ở con số vài chục vạn, tình hình xã hội Hà Nội vẫn giữ được nếp xưa. Cũng không ai quy định mấy đời sống ở Hà Nội thì được gọi là người Hà Nội. Nhiều người đã ở Hà Nội đến ba bốn đời vẫn không coi mình là người Hà Nội, người Hà Nội tiếp nhận họ trong nghĩa đồng bào cùng hòa nhập vào văn hóa Hà Nội. Người Hà Nội và những người từ các nơi đến lập nghiệp ở Hà Nội thời gian này đều giữ được phong thái người Tràng An...

Nói như vậy có lẽ cũng chỉ đúng một phần về sự sa sút trong nếp sống Hà Nội. Thực ra Hà Nội là nơi hội tụ của muôn phương. Những người nhập cư vào Hà Nội đem theo biết bao điều tốt đẹp từ quê hương mình, nhưng cũng đem về không ít những thói quen, lối sống "bản địa" không phù hợp với nếp sống Hà Nội. Người Hà Nội và văn hóa Hà Nội trong vài thập niên qua đã bị ảnh hưởng bởi sự tác động bên ngoài không chỉ của những người nhập cư từ các địa phương khác, mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn của sự du nhập các phương tiện kỹ thuật và văn hóa từ nước ngoài trong thời kỳ mở cửa.

Ðã có một thời người ta thường nghe nói: Ra đường người ngay sợ kẻ gian, ở nhà bố mẹ sợ con cái, ở trường thầy sợ trò... nhiều nhóm thanh niên mỗi câu nói đều văng ra những lời tục tĩu hay "tự nhiên như người Hà Nội". Những hiện tượng đó tuy chưa phải là tất cả nhưng cũng khá phổ biến để nói lên tình trạng xã hội đáng để cho người Hà Nội và những người vốn yêu quý Hà Nội quan tâm. Cũng may là người Hà Nội, xã hội Hà Nội đã không chấp nhận và thường lên án những điều đó, nên bản chất của người Hà Nội vẫn giữ được.

Cho nên, nói về người Hà Nội hiện nay, chúng ta phải nhìn nhận cả mặt tốt và mặt xấu. Mặt tốt được thể hiện trong hai cụm từ "Văn

minh - Thanh lịch" vốn có từ xưa. Nhưng mặt xấu thể hiện qua các tệ nạn xã hội như: ma túy, mại dâm, trộm cướp, nạn đua xe trái phép... xảy ra hằng ngày trên địa bàn Hà Nội thì không thể coi những tệ nạn đó không phải của người Hà Nội. Thử kiểm xem những đối tượng đó là ai, phải chăng chỉ là những người nhập cư từ nơi khác đến? Phần đông các đối tượng đó chính là con cái nhà lắm tiền, nhiều của mới nổi lên trong thời kỳ kinh tế thị trường. Bố mẹ chúng là ai? Họ đã kiếm tiền một cách dễ dàng và chu cấp thoải mái cho con cái mà cũng không hề biết chúng sử dụng số tiền đó làm gì, chỉ đến khi sự việc bị vỡ lở, biết con mình đã làm gì thì đã muộn. Có thể nói hầu hết những đối tượng trong các loại tệ nạn đó đều sinh ra sau chiến tranh, cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, họ cũng là người Hà Nội! Ðây chính là thế hệ mà sau này sẽ là chủ nhân tương lai của Hà Nội. Ðó là điều rất đáng lo ngại cho tương lai của Hà Nội mà chúng ta phải tính đến ngay từ bây giờ.

Phong cách văn minh, thanh lịch của người Hà Nội ngày nay không còn nguyên vẹn như câu ca xưa chắc chắn do nhiều nguyên nhân. Một phần do sự nhập cư ồ ạt từ nhiều địa phương du nhập lối sống "tự do tùy tiện", một phần tác động do kinh tế thị trường. Cuộc sống tuy khá hơn nhưng đồng tiền đã chi phối nếp nghĩ và lối sống của nhiều người. Văn hóa ngoại lai xâm nhập cũng tác động rất lớn, nhất là đối với tầng lớp thanh niên. Vừa qua, chủ trương của thành phố xây dựng môn "Hà Nội học" đưa vào giảng dạy trong nhà trường là một việc làm hết sức cần thiết. Những người sống ở Hà Nội cần hiểu biết về văn hóa, lịch sử Hà Nội.

Các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý phải tiến hành xây dựng một mẫu "người Hà Nội", "gia đình Hà Nội" trong giai đoạn hiện nay. Vai trò giáo dục không thể chỉ dựa vào nhà trường mà coi nhẹ sự giáo dục của cộng đồng và giáo dục trong gia đình. Giáo dục của cộng đồng là trách nhiệm của mỗi người đối với những hành vi trái với đạo đức, văn hóa. Vai trò giáo dục trong gia đình hết sức quan trọng bởi vì tất cả các thành viên trong xã hội đều nằm trong gia đình. Nếu mọi gia đình có nền nếp, có văn hóa thì sẽ có xã hội văn hóa, bởi vì "Gia đình là tế bào của xã hội". Các tế bào có lành mạnh thì mới có một xã hội cường tráng. Mặt khác, cũng cần có hành lang pháp luật định hướng cho lối sống và hành vi của người Hà Nội. Có như vậy mới hy vọng xây dựng thành công phong cách người Hà Nội thanh lịch, văn minh, đóng góp thiết thực cho công cuộc xây dựng Thủ đô văn minh - hiện đại chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

PGS Hà Ðình Ðức