TPP - Cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam

NDO -

NDĐT - Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) ra đời năm 2005, do bốn quốc gia đồng sáng lập là New Zealand, Singapore, Chile và Brunei, với mục tiêu ban đầu là cắt giảm thuế quan đối với các nước tham gia Hiệp định. Sau hơn một thập kỷ hình thành và phát triển, cho đến nay, TPP đã có 12 nước thành viên tham gia, gồm: New Zealand, Singapore, Chile, Brunei, Mỹ, Australia, Peru, Malaysia, Mexico, Canada, Nhật Bản và Việt Nam.

TPP - Cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam

Đây là một Hiệp định toàn diện thế hệ mới, bao hàm tất cả các vấn đề liên quan đến tự do thương mại như: Trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, sở hữu trí tuệ và các chính sách của các quốc gia thành viên v.v… Với vị trí là một nước nông nghiệp đang phát triển, Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức khi các điều khoản của Hiệp định có hiệu lực.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của Việt Nam, nông nghiệp luôn là ngành kinh tế có vị trí quan trọng với khoảng 70% dân số làm nông nghiệp. Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, trong những năm qua nhờ có chủ trương, đường lối đúng đắn của nhà nước, nông nghiệp Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực.

Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, kinh tế hộ gia đình có vai trò chủ yếu và đang chuyển từ kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hóa, gắn với thị trường. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn bằng cách phát triển mạnh các mô hình trang trại lớn, hay các hình thức kinh tế hợp tác khác, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con nông dân.

Nhờ những thành tựu đó mà Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo, chè, cà phê và các loại nông, lâm thuỷ sản lớn trên thế giới. Tuy nhiên, trước thềm hội nhập TPP, với những quy định khắt khe, minh bạch của pháp luật, sự đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng trong TPP, nông nghiệp Việt Nam cần phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội để đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học-công nghệ, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, chuyển đổi sang mô hình sản xuất tập trung quy mô lớn, đăc biệt coi trọng khâu chế biến nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm, tạo khả năng cạnh tranh cao trong môi trường hội nhập nông nghiệp trong TPP. ​

TPP - Cơ hội và thách thức với ngành chăn nuôi

Trong nông nghiệp Việt Nam, chăn nuôi có vị trí quan trọng. Việt Nam hiện có 11 triệu hộ nông dân, trong đó, trên 8 triệu hộ làm chăn nuôi và hơn 50% số sản phẩm chăn nuôi là theo quy mô nông hộ. Khi TPP được ký kết, ngành chăn nuôi được đánh giá là lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất.

Cho đến nay, sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn còn yếu và không bền vững bởi quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, quy trình sản xuất còn đơn sơ, chưa được đầu tư khoa học công nghệ cũng như vấn đề vệ sinh môi trường chuồng trại dẫn đến những nguy cơ các loại vật nuôi dễ bị dịch bệnh, ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh về chất lượng và giá thành so với sản phẩm của các nước trong TPP.

Việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết TPP sẽ là cơ hội cho các nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm và danh tiếng lâu năm, có ưu thế về cung cấp dịch vụ trên thế giới đổ bộ vào thị trường Việt Nam. Vì thế, để có thể vượt qua thách thức, đón nhận những cơ hội, tạo lợi thế cạnh tranh tốt, ngành chăn nuôi Việt Nam phải tự đổi mới, chú trọng đầu tư khoa học, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn theo những quy chuẩn cao và khắt khe mà thị trường TPP đòi hỏi.Một trong những lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đối với ngành chăn nuôi là thị trường thức ăn và thuốc bảo vệ động. Bởi lẽ, các sản phẩm chăn nuôi sau khi được chế biến và xuất khẩu đi các nước trong thị trường TPP, đòi hỏi phải có truy xuất nguồn gốc rõ ràng về nguyên liệu sử dụng trong quá trình chăn nuôi vì thế các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy định chung để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Điều này sẽ là lợi thế của Việt Nam bởi trình độ sản xuất các sản phẩm thuốc thú y và thức ăn gia súc của Việt Nam hiện đang được đánh giá tốt. Điều này không chỉ hỗ trợ cho ngành chăn nuôi phát triển mà còn là cơ hội để Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu chăn nuôi cho các nước trong TPP.

Theo Tiến sĩ Đoàn Nguyên Trúc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp Hội Chăn nuôi Việt Nam, “Cơ hội về chăn nuôi hiện nay khá lớn nếu chúng ta biết tổ chức, củng cố lại, tiếp cận nhanh với các tiến bộ kỹ thuật mới, thu hút được các nhà đầu tư mới vào lĩnh vực chăn nuôi. Thu hút được cả công nghệ chế biến và sản xuất theo chuỗi - từ sản xuất đến tiêu thụ. Đặc biệt, phải thay đổi về tư duy, đó là tư duy chấp nhận cạnh tranh”.

Bà Thái Hương, Chủ tịch Tập đoàn TH True Milk Việt Nam thì khẳng định, “TPP ra đời là toàn xã hội được lợi, đặc biệt là người tiêu dùng. Đừng vì những doanh nghiệp khi họ chưa bảo đảm đúng chất lượng để dừng lại hoặc xem đó là khó khăn. Tôi xem thách thức đó là một yếu tố để thúc đẩy cho sản xuất hàng hóa phát triển, buộc những doanh nghiệp ấy phải cạnh tranh một cách khốc liệt và đó là sự lựa chọn thị trường một cách rất tự nhiên”.

Đối với ngành trồng trọt

Hiện, Việt Nam đang triển khai đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Theo đó, Việt Nam đang tiến hành đổi mới ngành trồng trọt, chuyển đổi cây trồng, phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với thị trường trên cơ sở phát huy lợi thế các vùng miền. Trong những năm qua, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề do thiên tai, bão lũ và biến đổi khí hậu ngày một gia tăng, song lĩnh vực trồng trọt vẫn đạt được mức tăng trưởng khá.

Thời gian qua, cả nước đã xây dựng được hàng nghìn cánh đồng mẫu sản xuất lúa, ngô, lạc, rau, củ, quả… với giá trị thu hoạch cao hơn sản xuất bình thường 15-25%; có trên 1/3 số cánh đồng mẫu được doanh nghiệp hỗ trợ ứng vốn để bà con mua giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và bao tiêu sản phẩm.

Bên cạnh đó, kết quả chuyển đổi cơ cấu đối với sản phẩm lúa gạo đã được khởi động và thực hiện tại những vùng trọng điểm lúa gạo; chuyển những diện tích đất lúa kém hiệu quả, tưới tiêu khó khăn sang gieo trồng các nhóm cây khác hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản. Năm 2014, cả nước đã chuyển đổi 106 ngàn ha lúa sang trồng các loại rau màu cho hiệu quả kinh tế cao hơn.

Do xu hướng của thị trường, các loại rau hoa quả được định vị là ngành tiềm năng và mũi nhọn trong tái cấu trúc của lĩnh vực trồng trọt. Cục trồng trọt đã tích cực phối hợp với các địa phương tập huấn, chuyển giao và triển khai các chương trình thực hành nông nghiệp tốt với khoảng 14.500 ha rau quả được chứng nhận VietGAP, hàng trăm nghìn ha sản xuất “theo hướng VietGAP” nhằm giúp nông dân dễ tiếp cận hơn với sản xuất an toàn.

Trong năm qua, có sáu loại cây trồng có tốc độ tăng trưởng cao và mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhờ giá trị xuất khẩu tăng, đó là: gạo, cà phê, rau quả, chè, hạt tiêu, hạt điều và sắn.

Tuy nhiên, trước thềm hội nhập TPP, ngành trồng trọt Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức do đang trong quá trình tái cơ cấu, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún và tự phát, chưa được đầu tư cơ giới hoá đồng bộ, quá trình sản xuất gắn với thị trường còn yếu và đặc biệt là các khâu chế biến, bảo quản kém khiến cho tổn thất sau thu hoạch khá cao. Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp, người sản xuất, đầu tư hạ tầng, kêu gọi đầu tư vốn FDI còn bất cập. Nông nghiệp chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhiều sản phẩm nông sản của Việt Nam chưa có thương hiệu và phát triển thị trường cho các mặt hàng nông sản Việt Nam có sức cạnh tranh yếu so với các nước thành viên TPP khác.

Để vượt qua những thách thức và nắm bắt cơ hội do TPP mang lại, ngành trồng trọt Việt Nam phải đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn các loại cây trồng mà Việt Nam có lợi thế, gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị; đẩy nhanh nghiên cứu, khảo nghiệm và đưa vào sử dụng các loại giống tốt, giống chất lượng. Tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp thâm canh, thực hành sản xuất tốt; ứng dụng khoa học công nghệ, hiện đại hóa công nghệ, thiết bị chế biến, bảo quản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả sản xuất.

Theo ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam: “Ngành thủy sản cũng như Hiệp hội chúng tôi cũng thấy là TPP hay là các FTA khác nó tạo ra một môi trường để thúc đẩy cho doanh nghiệp cũng như là các cơ quan liên quan ở trong nước có một sự thay đổi. Những khó khăn đặt ra ở đây có thể liên quan đến điều kiện kỹ thuật hay vấn đề về lao động. Tất cả những cái đó cũng cần phải có thời gian nhưng ít nhất nó cũng tạo sự thúc đẩy cho các doanh nghiệp có sự chuyển biến về chất, chuyển biến tích cực hơn để thay đổi, để phù hợp trong bối cảnh là hội nhập gắn liền với cạnh tranh”.

Lĩnh vực nuôi trồng, chế biết thuỷ hải sản

Việt Nam là một đất nước có điều kiện tự nhiên rất đa dạng với hệ thống sông hồ, kênh rạch chằng chịt và có đến 3000km bờ biển, bởi vậy có thể nói Việt Nam có điều kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế thuỷ hải sản.

Trong những năm qua, ngành thuỷ hải sản của Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh. Tổng công suất chế biến thủy sản quy mô công nghiệp đạt trên 2 triệu tấn sản phẩm/năm. Sản lượng thủy sản chế biến tiêu thụ nội địa đạt 950 nghìn tấn, tăng trưởng bình quân 3,3%/năm và xuất khẩu đạt khoảng 6 tỉ USD mỗi năm.

Tuy nhiên, những thành tựu này chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam. Để khắc phục tồn tại này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt quy hoạch phát triển chế biến thủy sản toàn quốc đến năm 2020. Theo đó, phấn đấu đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu ở mức 10 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 7% năm, tập trung phát triển và giữ vững các thị trường truyền thống và các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi và đặc biệt là các nước tham gia Hiệp định TPP.

Tuy nhiên, theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, năm 2013, 40% thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang các nước trong khối TPP: Hoa Kỳ chiếm hơn 22%, Nhật Bản hơn 17% nhưng giá trị thủy sản của Việt Nam lại thấp do chủ yếu xuất phát từ quy mô nhỏ và thường bị thị trường quốc tế ép giá. Do đó, khi gia nhập TPP, thủy sản VN sẽ có thêm nhiều cơ hội hợp tác với nước ngoài để nâng cao giá trị sản phẩm.

Là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, song khi tham gia ký kết TPP, ngành thủy sản Việt Nam sẽ phải đối mặt vơi nhiều thách thức lớn về khả năng cạnh tranh do giá thành sản xuất nguyên liệu ở Việt Nam đang cao so với mặt bằng chung của các nước tham gia TPP. Ngoài ra, những quy định nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc và các vấn đề liên quan đến quy chuẩn chất lượng trong quá trình chế biến đang trở thành những mối lo của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.

Trong 12 quốc gia tham gia TPP, có thể chia thành 3 nhóm theo trình độ phát triển chăn nuôi. Theo đó, các quốc gia Mỹ, Australia và New Zealand là những nước phát triển thuộc nhóm đầu, có tiềm năng và lợi thế lớn về xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi. Nhóm thứ hai gồm Nhật Bản, Singapore và Malaysia. Việt Nam hiện nằm trong nhóm kém phát triển nhất do trình độ áp dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp còn thấp, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, thiếu đồng bộ, giá thành sản xuất nguyên liệu còn cao hơn mặt bằng chung nên để có thể phát triển và hội nhập trong TPP, nông nghiệp Việt Nam sẽ phải cố gắng rất nhiều để vượt qua mọi thách thức và nắm bắt những cơ hội đang đến gần.

Theo Tiến sĩ Đặng Kim Khôi, Giám đốc Trung tâm tư vấn Chính sách Nông nghiệp, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp nông thôn, “TPP nói riêng cũng như hàng loạt hiệp định thương mại mà thời gian vừa qua Việt Nam đã ký kết và đã bắt đầu tham gia đã tạo ra một sân chơi rất là lớn cho nông sản Việt Nam. Nông nghiệp Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen với nhau. Hội nhập là một quá trình tất yếu và việc cạnh tranh bình đẳng và tận dụng được cơ hội hay còn gọi là lợi thế cạnh tranh của chúng ta, lợi thế so sánh của chúng ta để chúng ta phát triển nền nông nghiệp, thì đấy là quan điểm xuyên suốt mà chúng ta phải thực hiện. Do đó theo chúng tôi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu và hướng tới là phải có những chiến lược để đón đầu”.

Có thể khẳng định rằng với tiềm năng và lợi thế của một nước nông nghiệp truyền thống, khi tham gia ký kết TPP, Việt Nam sẽ là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này sẽ mang lại những cơ hội cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam, mang lại cho người tiêu dùng Việt Nam những cơ hội được tiếp cận và sử dụng những sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao theo chuẩn quốc tế với giá cả cạnh tranh. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp và các hộ sản xuất, chế biến, kinh doanh nông nghiệp Việt Nam thì đây là một bước ngoặt đầy thách thức, buộc họ phải nỗ lực để vượt qua để phát triển và hội nhập.