Thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với Thụy Sĩ và Nga phát triển mạnh mẽ

NDO -

Chuyến thăm chính thức Liên bang Thụy Sĩ và Liên bang Nga của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam từ ngày 25/11 đến 2/12, đã thành công tốt đẹp, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và hai nước phát triển mạnh mẽ. Nhân dịp này, Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng đã trả lời phỏng vấn báo chí về kết quả và ý nghĩa của chuyến thăm quan trọng này.

Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng. (Ảnh: Nguyễn Hồng/Báo Thế giới và Việt Nam)
Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng. (Ảnh: Nguyễn Hồng/Báo Thế giới và Việt Nam)

Phóng viên: Xin Thứ trưởng cho biết kết quả nổi bật chuyến thăm chính thức của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tới Thụy Sĩ?

Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng: Đây là chuyến thăm Thụy Sĩ và châu Âu đầu tiên của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trên cương vị mới, có ý nghĩa biểu tượng của quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp giữa hai nước khi diễn ra đúng dịp hai bên kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1971-2021) và 30 năm hợp tác phát triển (1991-2021). Với tinh thần đó, Việt Nam và Thụy Sĩ đều rất coi trọng và tổ chức chuyến thăm thành công tốt đẹp với nhiều kết quả cụ thể. Nổi bật là:

Thứ nhất, về chính trị, hai bên đã trao đổi sâu rộng, thực chất và đạt sự nhất trí cao về các biện pháp tăng cường quan hệ song phương và đa phương, tạo xung lực, định hướng mới thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ và hiệu quả hơn thời gian tới, tương xứng tiềm năng, thế mạnh và nhu cầu của hai nước; chia sẻ tầm nhìn về các vấn đề chiến lược khu vực và toàn cầu, trong đó có tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh-an toàn hàng hải ở Biển Đông phù hợp luật pháp quốc tế. 

Hai là, quan hệ hợp tác kinh tế được tạo thêm lực đẩy mới. Đích thân Chủ tịch nước và Tổng thống Guy Parmelin tham dự và phát biểu tại Diễn đàn doanh nghiệp cấp cao Việt Nam-Thụy Sĩ, chứng kiến ký một số thỏa thuận hợp tác quan trọng về hỗ trợ điều trị Covid-19; sản xuất và phát triển vaccine; phát triển ngân hàng; ứng dụng công nghệ trong phát triển đô thị; dịch vụ hàng không… Trong gặp gỡ, lãnh đạo và cộng đồng doanh nghiệp Thụy Sĩ đánh giá thị trường Việt Nam còn nhiều tiềm năng; khẳng định Việt Nam là đối tác kinh tế ưu tiên, có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, sản xuất ở khu vực và thế giới. Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch bệnh, có các chính sách thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và có những cam kết mạnh mẽ chuyển mạnh sang mô hình phát triển xanh, bền vững. Chuyến thăm là cơ hội để hai nước thúc đẩy sớm ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Khối Mậu dịch tự do EFTA trong đó Thụy Sĩ đóng vai trò đầu tàu. 

Ba là, hai bên đạt được định hướng chung nhằm triển khai hiệu quả các hoạt động hợp tác trong lĩnh vục khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo thông qua việc nâng cấp hợp tác từ Ý định thư lên Hiệp định giữa hai Chính phủ về hợp tác khoa học-công nghệ và hướng tới thiết lập quan hệ Đối tác về đổi mới sáng tạo. Đây là lĩnh vực hai bên có tiềm năng. 

Phóng viên: Xin Thứ trưởng cho biết ý nghĩa của việc Chủ tịch nước thăm, làm việc với các cơ quan của Liên hợp quốc và một số tổ chức quốc tế tại Geneva?

Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng: Hoạt động đa phương là một trọng tâm trong chuyến công tác lần này của Chủ tịch nước. Chỉ trong chưa đầy 24 giờ ở Geneva và mặc dù vào ngày chủ nhật, Chủ tịch nước đã gặp Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc và lãnh đạo các tổ chức quốc tế lớn có trụ sở tại đây. Đây là lần đầu Nguyên thủ ta thăm và làm việc với các tổ chức quốc tế quan trọng ở Geneva, đặc biệt là trong bối cảnh ta đảm nhiệm rất thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tích cực triển khai ở cấp cao hoạt động đối ngoại đa phương theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XIII và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, tăng cường quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức chuyên môn Liên hợp quốc cũng như vận động, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế cho công cuộc phát triển đất nước.

Lãnh đạo các tổ chức quốc tế đều bày tỏ ấn tượng trước các chủ trương, chính sách và những kết quả tích cực mà Việt Nam đã đạt được trong kiểm soát dịch bệnh, phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tự do hóa thương mại, coi Việt Nam là hình mẫu thành công của các nước đang phát triển, khẳng định sẵn sàng đồng hành, hỗ trợ Việt Nam hòan thành mục tiêu kép, ứng phó biến đổi khí hậu và thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững…

Trong dịp này, các tổ chức quốc tế có nhiều cam kết quan trọng trong hợp tác và hỗ trợ Việt Nam. WHO khẳng định tiếp tục tích cực hỗ trợ công tác phòng, chống dịch Covid-19, trong đó có việc cung cấp vaccine thông qua cơ chế COVAX, tăng cường năng lực hệ thống y tế, đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất, chuyển giao công nghệ vaccine ở khu vực, tạo điều kiện để vaccine do Việt Nam sản xuất tham gia chương trình thử nghiệm toàn cầu của WHO. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cam kết sẽ hỗ trợ Việt Nam trong triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia và nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và địa phương.  

Phóng viên: Xin Thứ trưởng cho biết kết quả chuyến thăm Nga, đặc biệt là việc hai bên thông qua Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Nga đến năm 2030 có ý nhĩa như thế nào đối với quan hệ hai nước? 

Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng: Trước tiên, phải khẳng định, chuyến thăm chính thức Liên bang Nga lần này của Chủ tịch nước đã thành công rực rỡ về mọi mặt. Chủ tịch nước gặp các lãnh đạo cao nhất của Nga. Các cuội hội đàm, hội kiến trong bầu không khí hữu nghị, chân tình, ấm áp tình đồng chí, anh em, đặc biệt cuộc hội đàm với Tổng thống Vladimir Putin suốt gần 4 giờ, trao đổi sâu rộng, thực chất và cụ thể hàng loạt các vấn đề song phương, đa phương, khu vực và thế giới. 
    
Với tin cậy chính trị rất cao và quyết tâm làm sâu sắc hơn, đưa quan hệ lên tầm cao mới, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí thông qua Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Nga đến năm 2030. Điều này có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh hai bên kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược và hướng tới kỷ niệm 10 năm quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, xác định rõ các biện pháp và phương hướng cụ thể thúc đẩy hợp tác Việt-Nga trong 10 năm tới; là minh chứng cho quyết tâm của cả hai nước trong việc mở ra một giai đoạn phát triển hợp tác mới, đi vào chiều sâu, hiệu quả, và rộng khắp trên mọi lĩnh vực, trên bình diện song phương và đa phương, đáp ứng lợi ích lâu dài của hai nước, vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung trên thế giới.

Trong chuyến thăm lần này, Chủ tịch nước và đoàn cũng dành thời gian gặp gỡ lãnh đạo Quốc hội, Đảng Cộng sản Nga, Đảng nước Nga thống nhất để trao đổi nhằm củng cố và tăng cường quan hệ đối ngoại Đảng và ngoại giao nghị viện. Chủ tịch nước cũng gặp tri ân những người bạn thủy chung, gắn bó với Việt Nam ở Hội Hữu nghị Nga-Việt, Hội Cựu chiến binh, chuyên gia dầu khí…, trao Huân chương Hữu nghị cho một số tập thể và cá nhân có nhiều đóng góp tích cực cho quan hệ hai nước.

Liên bang Nga luôn chiếm vị trí quan trọng, ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam là đối tác ưu tiên trong chính sách của Nga đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hai nước có quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó, trải dài hơn 7 thập kỷ, được dày công vun đắp bởi nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước, giúp nhau chí tình trong công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước. Trên cơ sở những nền tảng vững chắc đó, với kết quả chuyến thăm lần này, tôi cho rằng, hai bên sẽ nỗ lực cùng nhau phát huy hơn nữa các tiềm năng và thế mạnh để hiện thực hoá Tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Nga đến năm 2030 với một số hướng lớn sau:

Một là, duy trì đối thoại và tin cậy chính trị, phối hợp chặt chẽ để giải quyết những phát sinh trong quá trình triển khai các hoạt động hợp tác phù hợp lợi ích và mong muốn của cả hai bên. 

Hai là, tạo đột phá trong hợp tác kinh tế-thương mại trên cơ sở tận dụng cơ hội do Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu mang lại. 

Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả trong những lĩnh vực hợp tác truyền thống như dầu khí, năng lượng; khuyến khich đầu tư và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực mới như công nghệ cao, phát triển hạ tầng, công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, hợp tác địa phương. 

Bốn là, tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, giáo dục-đào tạo... và tạo thuận lợi cho công dân của nhau sinh sống, làm việc, học tập ở mỗi nước. 

Năm là, tăng cường hợp tác trong các vấn đề khu vực và toàn cầu, ứng phó các thách thức truyền thống và phi truyền thống trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.

Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!