Đồng chí Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam

NDO -

Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của đồng chí Lê Đức Thọ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương (10/10/1911-10/10/2021), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp Ban Tuyên giáo Trung ương và Tỉnh ủy Nam Định tổ chức Hội thảo khoa học: “Đồng chí Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam”.

Đồng chí Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam

Báo Nhân Dân giới thiệu bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tại Hội thảo.

Đồng chí Lê Đức Thọ, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Nam Định, một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Đồng chí Lê Đức Thọ tên khai sinh là Phan Đình Khải, sinh ngày 10/10/1911, tại làng Địch Lễ, tổng Đông Phù, nay thuộc xã Nam Vân, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Là một trong những đảng viên thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng, trong suốt 64 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí đã được cử giữ nhiều trọng trách của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí được chỉ định tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Năm 1948, đồng chí được cử dẫn đầu phái đoàn của Đảng, Chính phủ vào nam công tác và gắn bó với cuộc kháng chiến của nhân dân miền nam trên các cương vị: Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1949-1951), Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1951-1952), Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1952-1954).

Năm 1955, đồng chí tập kết ra bắc, được cử làm Trưởng Ban Thống nhất Trung ương. Cuối năm 1955, đồng chí được bổ sung vào Bộ Chính trị. Từ đó cho đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, đồng chí đảm nhiệm các cương vị: Phụ trách công tác sửa sai trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, kiêm Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương; Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam; Cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phụ trách công tác đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris về Việt Nam; Trưởng Ban miền Nam của Trung ương Đảng; Đại diện Bộ Chính trị vào nam phổ biến nghị quyết về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 và tham gia chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí Lê Đức Thọ tiếp tục được phân công đảm nhiệm nhiều trọng trách: Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Phụ trách công tác đặc biệt giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng; Thường trực Ban Bí thư, phụ trách công tác tổ chức, tuyên huấn và nội chính; Giúp chủ trì công tác của Ban Bí thư, phụ trách công tác tư tưởng, công tác đối ngoại, rồi phụ trách công tác nội chính và công tác quốc phòng; Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986), đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

1. Đồng chí Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, bản lĩnh, thuộc thế hệ đảng viên đầu tiên của Đảng

Kế thừa truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình, năm 1926, khi mới 15 tuổi, đồng chí Lê Đức Thọ đã tham gia phong trào đấu tranh đòi tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1928, đồng chí tham gia Học sinh đoàn dưới sự lãnh đạo của Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Định và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929, khi mới 18 tuổi, bằng những hoạt động và đóng góp tích cực trong phong trào cách mạng, đồng chí được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng và được phân công phụ trách công tác thanh niên, học sinh. Với tinh thần yêu nước và nhiệt huyết cách mạng, đồng chí đã tuyên truyền, vận động được nhiều thanh niên yêu nước ở trường học và quê nhà tham gia hoạt động cách mạng. Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí Lê Đức Thọ trở thành một trong những đảng viên thế hệ đầu tiên của Đảng.

Tháng 11/1930, trong khi tham gia rải truyền đơn và treo cờ Đảng ở nhiều đường phố Nam Định nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, đồng chí Lê Đức Thọ bị thực dân Pháp bắt giam. Bị chính quyền thực dân kết án 10 năm tù khổ sai, đày đi Côn Đảo, đồng chí đã cùng các đảng viên trung kiên tiếp tục hoạt động trong Chi bộ bí mật và tham gia Chi ủy nhà tù. Dưới sự lãnh đạo của Chi ủy nhà tù, các chiến sĩ cộng sản đã tích cực học tập, rèn luyện lý luận chính trị và bản lĩnh cách mạng, đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù tàn bạo của thực dân Pháp.

Năm 1936, sau khi Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp, đồng chí Lê Đức Thọ được trả tự do. Trở về quê nhà, đồng chí tích cực tham gia hoạt động cách mạng và được phân công phụ trách công tác báo chí công khai và xây dựng cơ sở bí mật của Đảng bộ Nam Định trong cao trào cách mạng Dân chủ. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí, nhiều sách báo tuyên truyền về chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh cách mạng đã được ấn hành và phổ biến trong đảng viên và quần chúng nhân dân.

Năm 1939, đồng chí Lê Đức Thọ bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai, bị kết án 5 năm tù, giam tại các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Hòa Bình. Trong nhà tù đế quốc, đồng chí đã thể hiện bản lĩnh cách mạng vững vàng, được cử vào Chi ủy nhà tù Sơn La và là Bí thư Chi bộ nhà tù Hòa Bình. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí và Chi ủy các nhà tù Sơn La, Hòa Bình, các chiến sĩ cộng sản đã kiên cường giữ vững phẩm chất cách mạng, siết chặt đội ngũ đấu tranh chống bọn cai ngục hung bạo và tổ chức vượt ngục trở về với Đảng và phong trào cách mạng.

Hai lần bị chính quyền thực dân bắt giam, đồng chí Lê Đức Thọ luôn giữ vững khí tiết hiên ngang, bất khuất của người cộng sản trước kẻ thù và cùng với các chiến sĩ cộng sản trung kiên biến lao tù đế quốc thành trường học cách mạng, nơi luyện rèn bản lĩnh, ý chí của người cộng sản.

2. Đồng chí Lê Đức Thọ - Người cán bộ lãnh đạo tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam

Tháng 9/1944, đồng chí Lê Đức Thọ ra tù và nhanh chóng bắt liên lạc với tổ chức, được Trung ương Đảng giao phụ trách công tác xây dựng An toàn khu của Trung ương, tổ chức và huấn luyện cán bộ. Trên cương vị Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí đã tổ chức chu đáo, thành công các Hội nghị cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ vào cuối tháng 3/1945 và giữa tháng 5/1945 để quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng ở Tân Trào trong hai ngày 14 và 15/8/1945, đồng chí đã được cử vào Thường vụ Trung ương Đảng.

Trên cương vị là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, từ năm 1949 đến năm 1954, đồng chí Lê Đức Thọ đã cùng các đồng chí trong Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo quân dân Nam Bộ xây dựng, phát triển lực lượng kháng chiến về mọi mặt: xây dựng Đảng và chính quyền vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ngày càng lớn mạnh; chú trọng tổng kết, đúc rút kinh nghiệm tác chiến trên các chiến trường; thực thi những chính sách kinh tế đúng đắn giúp phát triển kinh tế vùng tự do, đặc biệt là chính sách mang lại ruộng đất cho nông dân nghèo,v.v, góp phần vào thắng lợi chung của quân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là một trong những Ủy viên Bộ Chính trị được Trung ương Đảng phân công tham gia chỉ đạo cách mạng miền nam, đồng chí Lê Đức Thọ đã tham gia hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng đối với cách mạng miền nam và góp phần quan trọng trong việc tổ chức chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền nam.

Năm 1968, khi cục diện “vừa đánh vừa đàm” mở ra, được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo và tham gia cuộc đấu tranh của phái đoàn ta tại bàn đàm phán Paris, đồng chí Lê Đức Thọ đã thể hiện rõ tầm vóc của một nhà ngoại giao tài ba, khiến đối phương phải nể phục, dư luận quốc tế đánh giá cao. Trong cuộc đấu trí quyết liệt với những nhà ngoại giao chuyên nghiệp, dày dạn kinh nghiệm hàng đầu của Mỹ, đồng chí đã cho thấy sự sắc sảo và kiên định trong đấu tranh đàm phán, nắm vững nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, phát huy sức mạnh của mặt trận ngoại giao cùng với các mặt trận quân sự, chính trị, linh hoạt, khôn khéo trong những tình huống cụ thể, mang đến thắng lợi của ta trong Hiệp định Paris năm 1973, thực hiện chủ trương của Đảng và ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Sau Hiệp định Paris, trên cương vị Trưởng Ban miền Nam, đồng chí Lê Đức Thọ đã trực tiếp thực hiện trọng trách của Trung ương Đảng, tham gia xây dựng các chủ trương, nghị quyết chỉ đạo cách mạng miền nam. Mùa Xuân năm 1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền nam. Trước tình thế cách mạng phát triển nhanh chóng, cuối tháng 3/1975, đồng chí được Bộ Chính trị cử vào miền nam để phổ biến quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về giải phóng miền nam. Đồng chí đã cùng với các đồng chí Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng thay mặt Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.

Được Bộ Chính trị phân công phụ trách công tác đặc biệt, đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, đồng thời giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng dưới sự thống trị tàn bạo của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary, thực hiện phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, đem lại sự hồi sinh cho đất nước Campuchia.

Trên cương vị Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ đã chú trọng giải quyết những vấn đề kinh tế-xã hội, đặc biệt là sự ủng hộ chủ trương tiếp tục thực hiện khoán sản phẩm, phát triển kinh tế hộ gia đình; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc của Tổ quốc; thực hiện mục tiêu từng bước giải tỏa thế bị bao vây, cấm vận; góp phần tìm tòi, đổi mới tư duy lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trên cương vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, với kinh nghiệm hoạt động cách mạng phong phú và tư duy sắc sảo, đồng chí Lê Đức Thọ tiếp tục đóng góp nhiều ý kiến quý báu đối với Trung ương Đảng về các chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, đồng chí Lê Đức Thọ là một cây bút sắc sảo, một nhà thơ cách mạng nổi tiếng. Với bút danh Trung Thành, đồng chí đã để lại những vần thơ mang đậm tính chiến đấu, ngời sáng chất thép, nhưng cũng giàu chất nhân văn, trữ tình và tràn đầy tinh thần lạc quan, cách mạng, yêu đời và yêu thương con người.

3. Đồng chí Lê Đức Thọ - Nhà lãnh đạo có nhiều cống hiến to lớn với công tác tổ chức, xây dựng Đảng

Phần lớn thời gian trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Đức Thọ gắn bó trực tiếp với công tác tổ chức, xây dựng Đảng. Thời gian bị bắt giam trong các nhà tù đế quốc, đồng chí đã được cử vào Ban Chi ủy và tham gia tổ chức, huấn luyện các chiến sĩ cộng sản. Năm 1944, sau khi ra tù, được Đảng phân công phụ trách công tác tổ chức và huấn luyện cán bộ, đồng chí đã chỉ đạo tổ chức các cuộc vượt ngục, bổ sung cán bộ cho các cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí, việc mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ quân sự chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền, đã luôn được chú trọng.

Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị là người phụ trách công tác tổ chức của Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ đã tổ chức điều động, bố trí cán bộ và mở các lớp huấn luyện cán bộ đáp ứng yêu cầu chống thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta. Những năm tháng hoạt động ở miền nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, trên cương vị lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam, kiêm Trưởng Ban Đảng vụ (tức Ban Tổ chức), đồng chí Lê Đức Thọ đã có đóng góp to lớn đối với công tác kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng; bố trí, sắp xếp lại một cách khoa học các cơ quan giúp việc; chú ý xây dựng, củng cố tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang; mở lớp huấn luyện đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt cấp khu và tỉnh. Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đồng chí đã đề xuất kế hoạch đưa hàng vạn con em cán bộ miền nam ra miền bắc học tập, đào tạo để sau này trở về xây dựng quê hương.

Trên cương vị Trưởng Ban Tổ chức Trung ương kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo công tác sửa sai cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đồng chí đã tổ chức nghiên cứu kỹ lưỡng và chỉ đạo kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, phục hồi cho các trường hợp bị oan sai, góp phần ổn định và củng cố miền bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Hai lần đảm nhiệm cương vị Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, đồng chí Lê Đức Thọ đặc biệt chú trọng việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ; quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên; biên soạn giáo trình; xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường.

Những năm kháng chiến chống Mỹ, đồng chí đã đề xuất và chỉ đạo thực hiện cuộc vận động xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ sở “bốn tốt”, mang lại kết quả quan trọng đối với việc củng cố tổ chức cơ sở đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động ở cơ sở.

Sau ngày đất nước thống nhất, trên cương vị Phó Trưởng Ban đại diện Đảng và Chính phủ ở miền Nam, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, đồng chí Lê Đức Thọ đã trực tiếp tham gia chỉ đạo thực hiện thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, với quan điểm phải khẩn trương thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất hai miền nam - bắc.

Nhiều năm đảm nhiệm cương vị Trưởng Ban Tổ chức Trung ương và Thường trực Ban Bí thư, phụ trách công tác tổ chức, với tinh thần thận trọng, phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến của nhiều cán bộ các cấp, đồng chí Lê Đức Thọ đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức thành công các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc từ lần thứ III đến lần thứ VI, đặc biệt là về công tác nhân sự, về tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng. Những hoạt động, cống hiến của đồng chí đối với công tác tổ chức, xây dựng Đảng đã góp phần phát triển lý luận về Đảng cầm quyền và để lại nhiều kinh nghiệm quý giá. Đảng ta khẳng định: “Trong nhiều năm phụ trách công tác tổ chức cán bộ của Đảng, là lĩnh vực công tác rất khó khăn, phức tạp, đồng chí đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích đối với công cuộc đổi mới hiện nay” .

4. Đồng chí Lê Đức Thọ - Tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Thọ đã nêu tấm gương sáng về đạo đức cách mạng cho các thế hệ cán bộ, đảng viên học tập, noi theo. Từ khi đến với lý tưởng cộng sản, gia nhập hàng ngũ của Đảng, đồng chí luôn giữ vững tinh thần cách mạng kiên trung, vượt mọi gian khó, hiểm nguy, tận tụy, phấn đấu trọn đời vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Đồng chí luôn nêu cao phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thẳng thắn và nghiêm khắc trong công việc, đồng thời giản dị, khiêm tốn và chu đáo trong cuộc sống. Ở đồng chí luôn thể hiện nổi bật tình yêu thương, quan tâm đến đồng chí, đồng bào, ghét sự phô trương hình thức, thói xa hoa, lãng phí. Đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần quốc tế cao cả, thực hiện đúng lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”.

Đồng chí Lê Đức Thọ có nhiều thời gian được làm việc gần với Chủ tịch Hồ Chí Minh và trở thành một trong những người học trò xuất sắc của Người. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã tác động mạnh mẽ đến việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, ý chí cách mạng và quyết tâm hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của đồng chí Lê Đức Thọ. Tấm gương sáng về đạo đức cách mạng của đồng chí Lê Đức Thọ là nguồn sức mạnh to lớn, cổ vũ, động viên mỗi cán bộ, đảng viên hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của mình.

5. Đồng chí Lê Đức Thọ - Người con ưu tú của quê hương Nam Định

Nam Định là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, nơi phát tích của vương triều nhà Trần với hào khí Đông A rực rỡ. Quê hương Nam Định là nơi sinh ra, nuôi dưỡng và hình thành nên ý chí cách mạng và những phẩm chất cao đẹp ở đồng chí Lê Đức Thọ.

Nam Định cũng là nơi ghi dấu những hoạt động yêu nước đầu tiên của đồng chí Lê Đức Thọ. Đây là nơi đồng chí đã giác ngộ cách mạng, đến với lý tưởng cộng sản, trở thành người đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên của Đảng; là nơi đồng chí tiếp tục hoạt động cách mạng sau khi từ Côn Đảo trở về.

Trưởng thành từ những hoạt động yêu nước, cách mạng ở quê hương, đồng chí Lê Đức Thọ đã góp phần tô thắm thêm truyền thống cách mạng vẻ vang của vùng đất Thành Nam. Trong quá trình công tác, dù bận nhiều công việc, đồng chí vẫn luôn dành tình cảm và sự quan tâm đặc biệt về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền; tình hình phát triển kinh tế-xã hội và đời sống của nhân dân, nhất là trong những lần về thăm, làm việc với Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà.

Noi gương đồng chí Lê Đức Thọ và các thế hệ cách mạng tiền bối, hiện nay, Đảng bộ và nhân dân Nam Định nêu cao tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi đại dịch Covid-19, từng bước chuyển sang trạng thái bình thường mới, phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, phấn đấu đến năm 2030, đưa Nam Định trở thành một tỉnh phát triển khá của cả nước.

Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Thọ, chúng ta càng có thêm ý chí, quyết tâm mới, kế thừa nhiệt huyết cách mạng và tinh thần yêu nước mà các thế hệ đi trước trao truyền lại, vững tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, càng đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, phát triển đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và của các nhà cách mạng tiền bối cũng như ước vọng của toàn dân tộc.