Cách mạng Tháng Tám:

Con đường tất yếu dẫn tới Nhà nước - Dân tộc

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Nhà nước - dân tộc

Với thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, đỉnh cao của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dân tộc Việt Nam đã giành lại được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ðó là một Nhà nước xuất xứ từ một cuộc cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân.

Trong sáu mươi năm qua, các nhà chính trị, nhà nghiên cứu của nước ta nói nhiều đến nguồn gốc lịch sử của Nhà nước mới, ít nói đến cơ sở pháp lý của Nhà nước đó. Tôi nghĩ nên căn cứ những khái niệm quốc tế, nguồn gốc lịch sử và cơ sở pháp lý, để có cái nhìn và đánh giá đầy đủ về Cách mạng Tháng Tám và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Về nguồn gốc lịch sử của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể nói người ta có đầy đủ các dữ kiện. Từ sau khi Nhật Bản đưa quân vào Việt Nam và ký với đô đốc Ðờ-cu, cao ủy Pháp ở Ðông Dương, bản hiệp định về "Phòng thủ chung Ðông Dương", thực chất là chống các nước Ðồng minh trong Mặt trận chống phát-xít, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh "đánh Pháp đuổi Nhật" để giành lại độc lập. Sau khi Nhật Bản cướp quyền kiểm soát Ðông Dương ngày 9-3-1945, nhân dân Việt Nam tích cực chuẩn bị tổng khởi nghĩa để giành chính quyền.

Ngày 16-8, Quốc dân Ðại hội họp tại Tân Trào quyết định thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 13-8, Ủy ban tổng khởi nghĩa ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Ngày 19-8 tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội và nhiều nơi khác. Ngày 22-8, chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim từ chức. Ngày 27-8, Ủy ban giải phóng dân tộc tự cải tổ, mở rộng thành phần thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố Tuyên cáo quốc dân. Ngày 30-8, hoàng đế Bảo Ðại xuống chiếu thoái vị và chuyển giao quyền lực cho Chính phủ mới tại Huế. Tối 28-8 Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Nguyễn Hữu Ðang giao cho nhiệm vụ tổ chức lễ Chính phủ lâm thời ra mắt ngày 2-9-1945. Ngày 2-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh trước gần một triệu người tại Quảng trường Ba Ðình (Hà Nội) đọc Tuyên ngôn độc lập thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Như vậy, nguồn gốc lịch sử của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước - Dân tộc của nước Việt Nam, được thành lập bằng bản Tuyên ngôn độc lập chuyển nước Việt Nam từ một thuộc địa thành một nước Cộng hòa. Cũng cần nói thêm là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt nguồn từ lịch sử dựng nước 4000 năm và truyền thống đánh thắng hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến Trung Quốc để tồn tại, giữ vững độc lập.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm trước hết đến cơ sở pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không thể nói chung chung đây là thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà phải nói đây là sự vận dụng sáng suốt và kịp thời sự hiểu biết sâu rộng của Người về lịch sử hình thành các Nhà nước trên thế giới. Ai cũng biết khi ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rằng Nhà nước - Dân tộc ở Pháp ra đời từ năm 1789 khi bản Tuyên bố về quyền của con người và của người công dân ngày 26-8-1789 vì bản tuyên bố đó tuyên bố nguyên tắc chủ quyền của Dân tộc và khởi xướng khái niệm công dân không còn là thần dân của Nhà nước quân chủ nữa. Việc thành lập nước cộng hòa năm 1792 xác nhận các nguyên tắc đó. Khi ở Trung Quốc, Người biết rằng sau cuộc khởi nghĩa Vũ Xương mở đầu cuộc cách mạng Tân Hợi, Tôn Trung Sơn nhậm chức tổng thống và tuyên bố thành lập nước Trung Hoa Dân quốc, xóa bỏ nhà nước quân chủ của nhà Thanh. Hội nghị các đại biểu các tỉnh chuyển thành Tham nghị viện. Khi ở Mỹ, Người biết rằng 13 thuộc địa của Anh sau khi đánh thắng quân Anh tuyên bốn độc lập ngày 4-7-1776 không những chấm dứt sự lệ thuộc Anh mà còn khẳng định chủ quyền của dân tộc, lập nên Nhà nước - Dân tộc. Nhiều nước khác cũng qua việc công bố Tuyên bố độc lập và thành lập nước cộng hòa. Hội nghị Véc-xây ngày 28-6-1919 quyết định thành lập nước Tiệp Khắc cũng như nước Ba Lan nhưng về pháp lý của việc thành lập nước Tiệp Khắc lại là bản Tuyên bố độc lập ngày 18-10-1918. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, chính quyền Suyn-tan đã xóa bỏ năm 1922, nhưng năm 1923 Mu-xta-pha Ke-man vẫn tuyên bố thành lập nước cộng hòa. Nhiều nước khác thành lập sau năm 1945 đều dùng hình thức tuyên bố độc lập như In-đô-nê-xi-a tuyên bố độc lập ngày 22-6-1945, An-giê-ri tuyên bố độc lập ngày 19-9-1958...

Sau khi khởi nghĩa thành công, độc lập đã giành lại được với sự hiểu biết sâu rộng về sự hình thành các Nhà nước - Dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rằng quyết định của Quốc dân Ðại hội Tân Trào thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc (tức Chính phủ lâm thời) hay việc cải tổ Ủy ban giải phóng dân tộc thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể là hành vi tạo nên cơ sở pháp lý cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà phải công bố một Tuyên ngôn độc lập như luật pháp quốc tế yêu cầu. Tuyên ngôn độc lập đó có nhiệm vụ xóa bỏ chế độ thuộc địa, thành lập nước Cộng sản với chính quyền của dân tộc hay nhân dân tức là một Nhà nước - Dân tộc. Bản tuyên bố đó dựa trên quyền tự quyết của các dân tộc và ý nguyện của Dân tộc. Bản Tuyên ngôn đó chính là cơ sở pháp lý của Nhà nước - Dân tộc. Hồ Chủ tịch đã biết vận dụng kinh nghiệm thành lập các Nhà nước - Dân tộc trong lịch sử để lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên cơ sở pháp lý vững chắc.

Tại sao chọn ngày 2-9-1945?

Người đầu tiên thắc mắc về vấn đề này là ông Nguyễn Hữu Ðang. Tối 28-8, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ tổ chức lễ ra mắt Chính phủ, ngày 2-9-1945, ông Ðang thấy chỉ còn bốn ngày, làm sao cho kịp. Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi: "Chú có làm được không?" ông Ðang trả lời: "Thưa Cụ vì còn ít ngày quá nên rất khó khăn". Chủ tịch Hồ Chí Minh không giải thích mà chỉ động viên ông Ðang "phải làm bằng được để xứng đáng lòng tin cậy của Chính phủ". Ông Ðang hiểu rằng không thể hoãn được, tích cực động viên các bạn Văn hóa cứu quốc, Hướng đạo, Truyền bá quốc ngữ và cuối cùng đã hoàn toàn thành công trong việc tổ chức lễ ra mắt của Chính phủ tại Quảng trường Ba Ðình, tuy chưa được biết câu trả lời cho câu hỏi: Tại sao phải làm ngày 2-9-1945.

Muốn tìm một lý giải cho việc chọn ngày 2-9 mà không phải một ngày khác, trước hết phải hiểu bối cảnh nước ta và quốc tế vào thời điểm đó. Với sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời và là Nhà nước thực tế đang kiểm soát toàn bộ nước Việt Nam. Bất kể Chính phủ hay lực lượng nào muốn giải quyết vấn đề gì về Việt Nam không thể không được sự đồng ý của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hội nghị Pốt-xđam tháng 7-1945 đã quyết định việc tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật ở Ðông Dương giao cho Chính phủ Trung Hoa Dân quốc ở phía bắc Ðông Dương từ vĩ tuyến 16 trở lên, cho Chính phủ Anh ở phía nam Ðông Dương từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Pháp thấy mình bị gạt ra ngoài nên Ðờ Gôn cấp tốc phái Ðội quân viễn chinh Pháp ở Viễn đông sang Việt Nam (CEFEO) dưới quyền chỉ huy của tướng Lơ Cléc, bổ nhiệm đô đốc Ðác-giăng-li-ê làm Cao ủy Ðông Dương, rồi đích thân đi Mỹ đề nghị Mỹ công nhận chủ quyền của Pháp ở Ðông Dương, tổng thống Tru-man đã đồng ý. Biết không thể vượt qua đầu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pháp đã ký Hiệp ước Trùng Khánh để Trung Hoa Dân quốc nhường Pháp quyền tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật để có thể đưa quân Pháp một cách hòa bình ra Bắc Kỳ... Pháp cho Me-xmê nhảy dù xuống làm đại diện Chính phủ Pháp tại Nam Bộ, một tổ biệt kích xuống gần Huế để lôi kéo vua Bảo Ðại. Ngày 22-8, Xanh-tơ-ni theo máy bay Mỹ đến Hà Nội. Ý đồ của Pháp rõ ràng là trở lại Ðông Dương có thể bằng thương lượng, có thể bằng vũ lực. Quân Tưởng Giới Thạch vào Việt Nam cần được Việt Nam cung cấp hậu cần và giúp đỡ của nhà cầm quyền Việt Nam. Ðó là chưa kể việc các quan chức Trung Quốc tung những tay sai người Việt để quấy phá chính quyền nhân dân.

Như vậy, trong bất cứ trường hợp nào cũng cần có một chính phủ để thay mặt nước Việt Nam bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, an ninh và quyền lợi chính đáng của người Việt Nam. Chính người đại diện của Pháp cũng hiểu rằng dù có sự thỏa thuận của Chính phủ Tưởng Giới Thạch Pháp vẫn cần được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho Pháp đưa quân ra miền bắc. Tình hình phát triển rất khẩn trương. Ngày 27-8, quân Lư Hán đã vượt biên giới tiến về Hà Nội. Ðại diện của Pháp đã đến Hà Nội ngày 22-8. Ngày 28-8, biệt kích Pháp đã nhảy dù xuống gần Huế để có liên lạc với Bảo Ðại. 6.000 quân của tướng A-lếch-xan-đri đã chiếm Lai Châu. Ðáng lẽ ngay sau khi tổng khởi nghĩa đã thành công, ta đã phải có một Chính phủ chính thức để thay mặt đất nước tiếp đón các đại diện dân sự, quân sự của nước ngoài. Nhưng tình thế của ta cũng không thể làm nhanh được: ngày 23-8 Thường vụ Trung ương từ Tân Trào mới về đến Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 25-8 mới về đến Hà Nội, ngày 27-8 Chính phủ lâm thời mới được thành lập. Ngày 28-8 Chủ tịch Hồ Chí Minh mới viết Tuyên ngôn Ðộc lập. Yêu cầu của tình hình là lập Chính phủ lâm thời càng sớm càng tốt để tiếp đón quân Tưởng Giới Thạch đến Hà Nội, tiếp đón đại diện của Chính phủ Pháp, của tổ chức OSS của Mỹ. Rõ ràng Chính phủ lâm thời không thể ra mắt đồng bào trước ngày 28-8 thời hạn chuẩn bị lễ ra mắt Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Nguyễn Hữu Ðang không thể ngắn hơn bốn ngày mà cũng không thể kéo dài hơn 4 ngày vì quân Tưởng đã bắt đầu vào nước ta, thậm chí những va chạm đầu tiên giữa dân ta và lính Tưởng đã xảy ra ở Lạng Sơn. Ngày 11-9, tướng Lư Hán, tư lệnh quân tiếp phòng của Trung Hoa Dân quốc, đã đến Hà Nội.

Khi ông Nguyễn Hữu Ðang hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh tại sao làm gấp thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không giải thích mà chỉ động viên ông chính là vì tình hình phức tạp và khẩn trương, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhất thiết phải là Chính phủ đang làm chủ đất nước, các nước khác không thể vượt qua chủ quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hôm nay kỷ niệm 60 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tưởng nên biểu dương ban tổ chức lễ ra mắt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945 đã có một cố gắng phi thường để buổi lễ thành công hoàn toàn.

LƯU VĂN LỢI
Nguyên Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao