Bài viết cho cuộc trao đổi về chủ nghĩa xã hội Việt Nam

NDO -

Sự nhận thức rằng việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình kéo dài cả một thời kỳ lịch sử, với đặc trưng là giai đoạn quá độ, trong đó các yếu tố thị trường phải được sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất. Những quá trình nảy sinh và những mâu thuẫn tạo ra là những yếu tố trung tâm phải được điều tiết bởi Đảng Cộng sản Việt Nam - cơ quan thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. (Ảnh: Đại lộ Thăng Long ở Thủ đô Hà Nội - Nguồn:tuyengiao.vn)
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. (Ảnh: Đại lộ Thăng Long ở Thủ đô Hà Nội - Nguồn:tuyengiao.vn)

Ở Tây Âu, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, việc khẳng định các lý tưởng xã hội chủ nghĩa bước vào một thời kỳ vô cùng khó khăn. Nhiều đảng cộng sản dần mất đi sự ủng hộ và ảnh hưởng đối với cử tri, một số đảng bắt đầu xét lại một cách cực đoan về lý tưởng và bản chất cách mạng của đảng, như trường hợp của Đảng Cộng sản Italia vào đầu những năm 1990 đã giải thể và chuyển thành một đảng tự do.

Ở khu vực này, các giai cấp thống trị tư bản châu Âu đã tích cực hoạt động để phá hoại mọi nỗ lực trong quá khứ và hiện tại nhằm xây dựng một xã hội khác với chủ nghĩa tư bản, đánh đồng xã hội chủ nghĩa với khái niệm “chủ nghĩa toàn trị”, hoặc với thất bại lịch sử của Liên Xô và xóa bỏ mọi trải nghiệm khác trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều này đã dẫn đến một hình thái của chủ nghĩa hư vô lịch sử, thí dụ như câu chuyện thịnh hành vào đầu những năm 1990 về một “sự kết thúc của lịch sử” và do đó là cách tiếp cận dứt khoát của lịch sử nhân loại đối với chủ nghĩa tư bản.

Ngày nay, chúng ta đang tiến gần đến sự kết thúc của chu kỳ lịch sử bắt đầu với các cuộc phản cách mạng giai đoạn 1989 - 1991, do đó phần lớn các tầng lớp nhân dân phương Tây có thể hiểu và thừa nhận khả năng về một giải pháp thay thế cho hệ thống xã hội gây ra bạo lực, bất bình đẳng và không còn khả năng đảm bảo sự tiến bộ và hạnh phúc. Tuy nhiên, có thể thấy những đóng góp to lớn về lý luận và thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam cho phong trào cộng sản quốc tế và thế giới đương đại, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác vẫn chưa được thừa nhận rộng rãi. Trong chiến tranh, khi trên các mặt báo, bản tin tràn ngập những báo cáo thắng lợi và hùng tráng, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong khí phách hào hùng của nhân dân Việt Nam là bản chất đấu tranh chống đế quốc và khát vọng xây dựng xã hội mới, một xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, Việt Nam là một quốc gia toàn cầu hóa và hiện đại, và nhiều người tò mò rằng liệu nó có còn là một nước xã hội chủ nghĩa hay không?

Với những ai đặt ra câu hỏi này một cách chính đáng, chúng tôi xin trả lời rằng, đã đến lúc phải hiểu sâu hơn về Việt Nam, về những thành tựu và sự tiếp thu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể hiện rõ trong bài viết mới được công bố gần đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã giúp mở rộng hiểu biết về sự độc đáo của chủ nghĩa xã hội Việt Nam và làm phong phú thêm tư tưởng xã hội chủ nghĩa của thế giới.

1- Con đường mà Việt Nam lựa chọn

Khi đã vượt qua quan điểm của chủ nghĩa Mác đương thời cho rằng, chủ nghĩa xã hội có thể được xây dựng trong một thời gian ngắn và cần phải phát triển lực lượng sản xuất, khắc phục khoảng trống từ quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta sẽ xem lãnh đạo Việt Nam đã giải quyết những vấn đề lý luận này như thế nào. Trong bài viết nêu trên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc lại rằng: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

Bài viết đã nêu lên một số điểm chính trong sự vận dụng chủ nghĩa Mác ở Việt Nam. Trước hết, từ bài học của chủ nghĩa Lê-nin về tiến trình lịch sử lâu dài và phức tạp của sự quá độ cho thấy, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ không phải tức thời hay máy móc. Hơn nữa, Việt Nam còn phải đối mặt với một lực lượng sản xuất còn rất thô sơ sau một thời gian dài chiến tranh và đấu tranh chống thực dân xâm lược. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh rằng, sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam đã “bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản”, tức là: Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Một điểm khác rất quan trọng: theo quan điểm của quy luật phát triển lịch sử, chủ nghĩa xã hội (được định nghĩa là một hệ tư tưởng, giá trị, hệ thống xã hội, con đường phát triển của xã hội loài người) cần và có thể phát triển bằng cách tận dụng tất cả những thành tựu của xã hội loài người (kể cả những thành tựu của chủ nghĩa tư bản), sau đó dần dần phát triển và lớn mạnh. Điều cần loại bỏ là bản chất của hệ thống áp bức và sự phát triển bất bình đẳng, những vấn đề nội tại của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa tư bản, thực sự “đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập, nhưng nó “vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra”. Việc thiếu hụt khả năng quản lý sự phát triển cân bằng, trầm trọng hơn trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và đại dịch hiện nay, có thể thấy từ việc thiếu khả năng tái phân phối các nguồn lực sản xuất, vốn vẫn là đặc quyền của một nhóm nhỏ, đã gây ra các cuộc phản đối như phong trào “99% chống lại 1%”. Điều này là do “tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”.

2- Chính sách đổi mới

Một bước ngoặt trong kinh nghiệm của Việt Nam là chính sách đổi mới và việc thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các lãnh đạo cộng sản lựa chọn phát triển lực lượng sản xuất để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ và đói kém, thay vì tự cô lập mình trong một chủ nghĩa xã hội quân bình khắc khổ. Điều này càng cần thiết vì trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, những người cộng sản Việt Nam đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn. Trên thực tế, hành động chống phá Việt Nam chỉ chấm dứt sau khi lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam được dỡ bỏ. Nếu không có dấu mốc này, sẽ khó có thể đặt nền móng cho sự phát triển của cơ cấu kinh tế hiện đại và khởi động quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trên hết, ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam phải đối mặt với tình thế cực kỳ khó khăn: Làm thế nào để thống nhất một đất nước đã bị chiến tranh gây chia rẽ và thù địch trong nhiều thập kỷ? Làm thế nào để thống nhất đất nước về kinh tế, chính trị và xã hội sau nhiều năm bị chia cắt giữa miền bắc với miền nam khi đặc điểm mỗi miền một khác. Và thêm nữa: Làm thế nào để một quốc gia có thể thoát ra khỏi hỗn loạn của chiến tranh, tái thiết kinh tế và đạo đức trong một khuôn khổ quốc tế đang thay đổi đáng kể và đòi hỏi Việt Nam phải có những lựa chọn chiến lược sáng tạo?

Công cuộc đổi mới đầu tiên diễn ra sau Đại hội VI năm 1986, và đẩy mạnh vào năm 1989 và đầu những năm 1990, khi làn gió bình thường hóa và sự sụp đổ của các mô hình xã hội chủ nghĩa thế kỷ XX thổi bùng trên khắp thế giới. Ngày nay, chúng ta có thể đánh giá kết quả cuộc cải tổ chính trị của Gorbachev và kết quả đổi mới của Việt Nam. Một mặt chúng ta thấy sự thất bại của một trải nghiệm lịch sử, mặt khác chúng ta thấy sự phát triển chưa từng có của đổi mới không chỉ củng cố xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội, mà còn ở việc giảm nghèo đáng kể.

Các số liệu được nêu bật trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng mang tính tiêu biểu: Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD (...) Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn (...).

Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”.

Các khía cạnh khuyết điểm, hạn chế cũng không hề bị che đậy, chẳng hạn như kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ và hiệu quả và năng lực của doanh nghiệp còn hạn chế; ô nhiễm môi trường, chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế.

Trên hết, việc khởi xướng chính sách này đã buộc Đảng Cộng sản Việt Nam phải thay đổi suy nghĩ của mình: Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận  sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...

Một khái niệm quan trọng được phát triển cùng với những cải cách trong công cuộc đổi mới là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo (...) Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả 3 mặt: Sở hữu, tổ chức quản lýphân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

Trong quá trình lịch sử lâu dài của thời kỳ quá độ, các thành phần của nền kinh tế thị trường tồn tại để quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy nền kinh tế, cho nên phương hướng của các lực lượng thị trường này phải được xác định bằng quyền lực chính trị, từ đó bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế này khuyến khích sự tồn tại của các hình thức sở hữu thuộc nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và Nhà nước giữ vai trò quyết định sự khớp nối giữa kinh tế và xã hội, điều phối hoạt động kinh tế với các chính sách xã hội nhằm đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã  hội.

3- Đảng Cộng sản Việt Nam

Điều tối quan trọng đối với toàn bộ lịch sử Việt Nam (cả trong thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội) là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người có trí tuệ và năng lực chính trị phi thường, đã kết hợp nhu cầu độc lập tự do của nhân dân Việt Nam trước sự xâm lược của thực dân và đế quốc với nhu cầu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã kết hợp việc khắc phục sự lạc hậu của đất nước với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu vào một hệ thống quan hệ quốc tế để ngăn chặn sự cô lập của đất nước. Kiệt tác chính trị của Hồ Chí Minh là nỗ lực gắn chặt Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào cộng sản quốc tế, nhưng đồng thời bảo đảm sự độc lập trên con đường lịch sử của chính mình, giúp Đảng có thể tự bảo vệ mình khỏi mọi hình thức can thiệp từ bên ngoài.

Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam rất chú trọng đến việc tự đổi mới, một mặt để bảo đảm sự thống nhất về mục đích giữa Nhà nước với nhân dân, nhưng cũng hạn chế những phần tử thoái hóa có thể làm xói mòn bản lĩnh cách mạng của Đảng và tiến trình lịch sử mà Đảng đang dẫn dắt. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã kịp thời nhắc nhở trong bài viết của mình rằng, chính sự phát triển kinh tế ấn tượng một mặt mở ra khả năng phát triển đất nước, làm giàu cho nhân dân, mặt khác cũng tạo ra các điều kiện cho các hiện tượng thoái hóa (quan liêu, tham nhũng, chủ nghĩa cơ hội).

Việc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bắt đầu từ mối quan hệ sống động và bền chặt giữa nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể tự thách thức chính mình, cách mạng hóa các quan niệm và quan hệ kinh tế cũ, đáp ứng nguyện vọng của người dân bằng cách phát triển kinh tế quốc dân. Đây là một “ván cược” lớn của Việt Nam sau khi thống nhất đất nước.

Sự sáng tạo này của Việt Nam có thể phổ biến tới toàn thế giới: từ những khu ổ chuột của người da màu ở ngoại ô Hoa Kỳ, nơi diễn ra các cuộc bạo động chống phân biệt chủng tộc hay chống nghĩa vụ quân sự, đến các lực lượng cánh tả châu Âu, nơi mà sự đoàn kết với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh đã trở thành nơi tôi rèn ý thức phản biện của cả thế hệ.

Tóm lại, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập một số khía cạnh trọng tâm bao gồm những thách thức mà các lãnh đạo Việt Nam phải đối mặt trong suốt quá trình lịch sử. Sau khi đất nước được giải phóng khỏi ách thực dân và đế quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiếp quản một đất nước bị chia cắt bởi chiến tranh và kinh tế kém phát triển, đưa đất nước trở thành một trong những nền kinh tế mới nổi và phát triển nhất hiện nay. Tất cả những điều này đã diễn ra mà không phải từ bỏ các nguyên tắc đã truyền cảm hứng cho các thế hệ trẻ đấu tranh cho tự do, những người đặt nền móng cho sự ra đời của nước Việt Nam hiện đại.

Điều nổi bật là sự nhận thức rằng việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình kéo dài cả một thời kỳ lịch sử, với đặc trưng là giai đoạn quá độ, trong đó các yếu tố thị trường phải được sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất. Những quá trình nảy sinh và những mâu thuẫn tạo ra là những yếu tố trung tâm phải được điều tiết bởi Đảng Cộng sản Việt Nam - cơ quan thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội. Việc phân tích quá trình này và những phân tích lý luận từ đó cũng rất thú vị đối với các nước tư bản phương Tây. Cả hai điều này là vì sự phát triển của Việt Nam (chắc chắn không phải không có những sai sót và bất cập) trở thành một sự so sánh với hệ thống kinh tế - xã hội của chúng ta với những bất công và bất bình đẳng mà hệ thống của chúng ta tạo ra.

Nhưng, trên hết, điều thú vị là những đóng góp của nó đối với sự phát triển của tư tưởng Mác ở quy mô quốc tế. Thay vì bị chôn vùi dưới đống đổ nát từ sự sụp đổ của “bức tường Berlin” và các quốc gia chủ nghĩa xã hội hiện thực, tư tưởng của chủ nghĩa Mác đang trở lại mạnh mẽ ở nhiều nơi trên thế giới và theo một cách thức chưa từng có, ngay cả trong các khẩu hiệu biểu tình của thanh niên ở các nước tư bản tiên tiến nhất.