50 năm Hội nghị quân sự Trung Giã

Trên đồi Xuân Sơn

Ngày 24-6-1954, trong ngôi nhà lá giữa rừng sâu, cơ quan Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Việt Nam ở Bản Cái, huyện Ðịnh Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng, chủ trì cuộc họp của đoàn đại biểu Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Việt Nam đi dự Hội nghị quân sự Trung Giã đàm phán với đoàn đại biểu Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp. Tại cuộc họp, chỉ có hai cán bộ ngoài quân đội là ông Ðào Tùng, phóng viên Việt Nam Thông tấn xã và ông Hồng Hà, phóng viên chiến tranh báo Cứu quốc.

Thiếu tướng Văn Tiến Dũng thông báo tình hình. Hội nghị Genève về Ðông Dương đang họp đã thỏa thuận nguyên tắc về việc đại diện hai Bộ Tổng tư lệnh gặp nhau tại chỗ, ở Việt Nam. Trong các ngày 16, 17-6-1954 trong dịp Việt Nam trao trả thương binh Pháp cho phía Pháp ở ga Cầu Giỏ (Bắc Giang), đại diện quân đội Việt Nam trao cho đại diện quân đội Pháp bức thông điệp của Bộ Tổng tư lệnh đề nghị hai bên cử ngay đại diện chính thức mở cuộc hội đàm tại Việt Nam để thảo luận tất cả các vấn đề do cuộc đàm phán ở Genève đặt ra. Phía Việt Nam chủ động đề nghị: Nếu phía Pháp đồng ý, sĩ quan liên lạc hai bên gặp nhau ngày 19-6-1954 tại làng Ninh Liệt, huyện Ða Phúc (nay là huyện Sóc Sơn) để thảo luận những thể thức cần thiết tổ chức cuộc đàm phán.

Qua Ðài phát thanh Con Nhạn (HIRONDELLE), phía Pháp trả lời đồng ý. Trung tá Lê Minh, sĩ quan liên lạc của Việt Nam và Thiếu tá Giắc-canh, sĩ quan liên lạc Pháp, đúng hẹn gặp nhau ở làng Ninh Liệt. Ðại diện hai bên thỏa thuận được những vấn đề liên quan tới Hội nghị giữa đại diện hai Bộ Tổng tư lệnh và sau khi đi xem xét tại chỗ, chọn đồi thôn Xuân Sơn, xã Trung Giã, huyện Ða Phúc, nằm giữa Phố Nỉ thuộc vùng tự do của ta và đồn Pháp ở Núi Ðôi, cách thị xã Thái Nguyên và cách Hà Nội đều khoảng hơn 30 km, trên đường số 3, làm địa điểm họp Hội nghị quân sự Việt Nam - Pháp. Hai Bộ Tổng tư lệnh đã chấp nhận sự lựa chọn này.

Tại cuộc họp, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng công bố quyết định của trên về thành phần đoàn Bộ Tổng tư lệnh Việt Nam dự Hội nghị quân sự Trung Giã gồm: Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng, Trưởng đoàn; Ðại tá Song Hào, Chính ủy Ðại đoàn 308, Phó trưởng đoàn và các thành viên: Ðại tá Lê Quang Ðạo, Cục trưởng Cục Tuyên huấn; Trung tá Nguyễn Văn Long ở Cục Tác chiến, Trung tá Lê Minh (tức Lê Minh Nghĩa), phụ trách Cục Quân huấn; phiên dịch của Trưởng đoàn Việt Nam là Thiếu tá Nguyễn Văn Lê (tức Lưu Văn Lợi); phụ trách công tác tuyên truyền, báo chí của đoàn và phụ trách nhóm 10 phóng viên Việt Nam là: Ðào Tùng và Hồng Hà.

Thiếu tướng Văn Tiến Dũng cho biết: Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn đoàn trước khi lên đường: "Ta đàm phán với Pháp lần này trong tư thế người chiến thắng; phải vững vàng về nguyên tắc, nhưng linh hoạt về sách lược".

Ngày 26-6-1954, chúng tôi rời thị xã Thái Nguyên hướng về Trung Giã. Sau 8 năm kháng chiến, nhờ chiến thắng Ðiện Biên Phủ, lần đầu tiên được đi xe ô-tô giữa ban ngày trên quãng đường Thái Nguyên - Hà Nội đã ngừng hẳn tiếng súng, tiếng bom, mìn, chúng tôi rạo rực hít thở hương vị hòa bình êm dịu đến sớm với Thái Nguyên. Toàn đoàn đàm phán đóng cơ quan ở một làng cực nam huyện Phổ Yên (Thái Nguyên), sát con đê cao phía bắc sông Công, gần cây cầu Ða Phúc đã bị đánh sập. Qua sông bằng cầu phao, đi vài ki-lô-mét thì tới địa điểm họp Hội nghị quân sự Trung Giã. Tuy phía Pháp đã cam kết đình chỉ mọi hoạt động quân sự quanh vùng Trung Giã, nơi đoàn Việt Nam ở và làm việc vẫn được một số đơn vị bộ đội bảo vệ chắc chắn cả ngày lẫn đêm. Ðường dây điện thoại giữ mối liên lạc giữa đoàn với Bộ Tổng tư lệnh và Văn phòng Trung ương Ðảng đã được xây dựng cấp tốc. Các bộ phận trong đoàn làm việc khẩn trương chuẩn bị cho ngày khai mạc Hội nghị. Các chi bộ đảng sinh hoạt, nêu quyết tâm giữ vững kỷ luật, thực hiện lời dặn của Bác Hồ.

Ông Ðào Tùng và tôi làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ðại tá Lê Quang Ðạo. Chúng tôi nghiên cứu danh sách 10 nhà báo của phía Pháp sẽ từ Hà Nội đến Trung Giã; chuẩn bị kế hoạch viết bài, tin gửi về Thái Nguyên; trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế; đến thăm ngôi nhà lợp lá của các nhà báo Việt Nam tại Hội nghị mới dựng xong. Chúng tôi tiếp các phóng viên báo chí, quay phim Liên Xô, Trung Quốc từ Thái Nguyên xuống. Ông Song Hào đến thăm các thôn để cảm ơn đảng bộ và nhân dân Trung Giã đã hết lòng giúp đỡ đoàn đàm phán Vịêt Nam.

Tin tức dồn dập đến với đoàn Việt Nam: Quân Pháp đã rút khỏi các thành phố, thị xã, thị trấn Nam Ðịnh, Thái Bình, Ninh Bình, Phủ Lý, Phát Diệm, Bùi Chu...

Quanh bàn đàm phán

Sáng sớm ngày 4-7-1954, những chiếc xe jeep của đoàn đàm phán Việt Nam và xe vận tải mô-lô-tô-va chở đoàn nhà báo lần lượt qua cầu phao bằng tre, nứa chạy vào Phố Nỉ giữa rừng người vẫy cờ hoa. Ðoàn đến địa điểm họp Hội nghị quân sự Trung Giã vừa lúc đoàn nhà báo từ Hà Nội lên. Họ ào ào nhảy xuống đất chụp ảnh chiếc xe jeep của Thiếu tướng Trưởng đoàn Văn Tiến Dũng sơn dòng chữ "Xe của tướng De Castries, chiến lợi phẩm Ðiện Biên Phủ".

Khu vực Hội nghị trên đồi thôn Xuân Sơn gồm một hội trường do quân đội Pháp dựng bằng khung thép mái lợp tôn, có đèn điện, quạt điện và bàn ghế. Khu nhà của đoàn ta bằng tre, nứa, mái lợp lá gồi khá thoáng mát, trong khi khu nhà của đoàn Pháp là những lều bạt rất nóng.

Ðoàn đại biểu Bộ Tổng tư lệnh Việt Nam, do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm Trưởng đoàn, bước vào hội trường trong ánh hào quang của Chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Ðoàn đại biểu Bộ Tổng chỉ huy Pháp, do đại tá Len-nuy-ơ làm Trưởng  đoàn cùng với bốn sĩ quan Pháp, ba sĩ quan ngụy ngồi đối diện đoàn Việt Nam. Lần đầu tiên, đại diện hai lực lượng vũ trang đang đối địch nhau trên chiến trường sau 9 năm chiến tranh đẫm máu ngồi quanh một chiếc bàn đàm phán hình chữ nhật. Phía sau hàng ghế đoàn đàm phán Việt Nam là hàng ghế đoàn 10 nhà báo Việt Nam, không có các nhà báo Liên Xô, Trung Quốc.

Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đọc diễn văn khai mạc phiên họp thứ nhất sáng 4-7-1954 của Hội nghị quân sự Trung Giã: "Cuộc gặp nhau tại chỗ là một việc có ích và cần thiết nếu hai bên đều thực tâm muốn bàn bạc những phương pháp cụ thể để nhanh chóng chấm dứt chiến tranh. Những cuộc thảo luận tại chỗ bao giờ cũng dễ thiết thực và cụ thể hơn".

Tại phiên họp thứ hai chiều 4-7, hai đoàn đàm phán Việt Nam và Pháp thỏa thuận nhiệm vụ và nội dung Hội nghị là:  Bàn và đi tới những đề nghị về tất cả các vấn đề quân sự do Hội nghị Genève đặt ra; bàn và quyết định biện pháp thực hiện những vấn đề quân sự mà Hội nghị Genève thỏa thuận; bàn về những vấn đề quân sự khác do tình hình cụ thể tại chỗ đặt ra. Hai bên còn thỏa thuận chương trình thảo luận của Hội nghị quân sự Trung Giã là: Vấn đề tù binh trong phạm vi những điều Hội nghị Genève đã quyết định, cụ thể là: Trao đổi tù binh ốm và bị thương, cải thiện sinh hoạt của tù binh, trao đổi thư từ của tù binh, gửi thuốc men cho tù binh; vấn đề thực hiện ngừng bắn; vấn đề điều chỉnh khu vực tập kết quân đội hai bên; vấn đề Ủy ban Liên hợp; các vấn đề do Hội nghị Ủy ban quân sự Genève đề ra hoặc Hội nghị quân sự Trung Giã thấy cần thiết đề ra.

Từ ngày 5-7-1954, hai bên bàn ngay vấn đề mà phía Pháp rất quan tâm, muốn giải quyết sớm là vấn đề trao trả tù binh bị ốm, bị thương và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho tù binh. Có rất nhiều điều khoản cụ thể, tỉ mỉ đã được thảo luận như chế độ ăn, chế độ đặc biệt, chỗ ở, vệ sinh chung và cá nhân, chế độ làm việc, cách đối xử, giải trí và đọc sách, báo, săn sóc tù binh bị ốm, cách gửi thuốc, gửi thư, bưu kiện cho tù binh.

Ngày 10-7-1954, hai bên đã ký được Biên bản chung về các vấn đề trên, họp báo công bố ngay.

Tuy nhiên, có một điểm phía Pháp không chịu bàn vấn đề do Việt Nam nêu ra là phía Pháp "không được dùng vào các hoạt động quân sự những người Việt Nam tham gia kháng chiến bị lực lượng Pháp bắt hoặc giam giữ". Vịêt Nam đòi phía Pháp trả lời về vấn đề này ngay trong Hội nghị quân sự Trung Giã.

Từ ngày 12-7-1954, Hội nghị bắt đầu thảo luận vấn đề ngừng bắn. Cấp trên điện xuống chỉ thị cho đoàn Việt Nam lúc này chỉ nên tìm hiểu ý đồ và phương án của Pháp, chưa nên đưa ra một phương án cụ thể nào và cũng không được để lộ một ý đồ nào của Việt Nam cho Pháp biết vì còn phải đợi kết quả đàm phán ở Hội nghị Genève. Ðoàn Việt Nam tìm cách kéo dài cuộc thảo luận, đề nghị hai bên xác định thế nào là vùng kiểm soát và thế nào là vùng tranh chấp. Cuộc tranh cãi kéo dài hơn một tuần mà vẫn bế tắc.

Những ngày trung tuần tháng 7, bộ phận nghiên cứu của đoàn Việt Nam được tăng cường thêm nhiều cán bộ mới được điều động từ chiến trường về. Chiều ngày 19-7-1954, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng triệu tập các cán bộ chủ chốt của đoàn đến nhà làm việc của thành viên mới. Trải tấm bản đồ Việt Nam trên bàn, Thiếu tướng báo tin Hiệp định Genève về lập lại hòa bình ở Ðông Dương sắp được ký kết. Thiếu tướng giải thích cho mọi người vì sao ở Genève Việt Nam phải chấp nhận vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời. Mọi người trong đoàn chụm đầu trên tấm bản đồ, căng mắt tìm nét vẽ dòng sông Bến Hải.

Một trang sử đẹp

Ngày 20-7-1954, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Ðông Dương được ký kết ở Genève. Không khí Hội nghị quân sự Trung Giã trở nên sôi động. Hai đoàn đàm phán bận rộn với nhiều công việc, tập trung bàn những biện pháp thực hiện các quy định của Hiệp định Genève về ngừng bắn ở Bắc Bộ vào ngày 27-7-1954; ở Trung Bộ ngày 1-8-1954; ở Nam Bộ ngày 11-8-1954; ở Lào ngày 6-8-1954; ở Cam-pu-chia ngày 7-8-1954. Hai bên đã ký được Quyết định chung ngày 22-7-1954 về hạn chế hoạt động quân sự từ ngày 22-7-1954 đến ngày ngừng bắn thật sự ở các chiến trường. Hai bên cam kết không mở những cuộc hành quân quy mô, quân Pháp đình chỉ ném bom, bắn phá, dùng bom na-pan.

Cuộc thảo luận về ngừng bắn ở Hội nghị quân sự Trung Giã cũng khá phức tạp.Vì chiến tranh Việt Nam không phải là cuộc đối đầu giữa hai đội quân chính quy có trận tuyến rõ ràng. Ðây là cuộc đối đầu giữa chiến tranh nhân dân Việt Nam gồm quân đội chính quy, các lực lượng vũ trang không chính quy và các tầng lớp nhân dân chống lại quân đội chính quy của Pháp, diễn ra khắp nơi, kể cả trong khu vực Pháp kiểm soát. Các chiến trường và các lực lượng đối địch xen kẽ nhau khắp cả nước. Trạng thái này đoàn ta gọi là "thế cài răng lược". Phía Pháp có cách diễn đạt và cách gọi khác. Cho nên "Hiệp nghị về nguyên tắc chung gỡ thế cài răng lược" do hai trưởng đoàn  ký ở Trung Giã ngày 25-7-1954 phải mở đầu bằng một định nghĩa: "Gỡ thế cài răng lược là một hành động đầu tiên để phân chia quân đội đôi bên, làm cho các đơn vị đối lập giãn ra, trở về các căn cứ của mình hoặc tập trung ở những địa điểm trú quân tạm thời đầu tiên, cốt để tránh mọi sự tiếp xúc có thể gây xung đột đôi bên".

Hai bên chỉ có một cuộc tranh luận gay go trước khi đi tới Hiệp nghị là phía Pháp muốn các lực lượng phi chính quy của Việt Nam phải rút ngay khỏi vùng họ tập kết tạm thời. Cuối cùng hai bên nhất trí là các lực lượng phi chính quy ngừng bắn tại chỗ, tiếp tục làm ăn theo nghề nghiệp của mình không mang theo vũ khí.

Ðoàn Việt Nam ở Trung Giã yêu cầu Pháp giúp máy bay chở ba đoàn sĩ quan Việt Nam đi truyền đạt mệnh lệnh ngừng bắn cho ba chiến trường Bình Trị Thiên, Liên khu 5 và Nam Bộ, đồng thời giúp các chiến trường tổ chức các Ủy ban Liên hợp chiến trường. Ngày 27-7-1954, ba đoàn sĩ quan Vịêt Nam rời sân bay Gia Lâm đến các chiến trường. Riêng máy bay chở đoàn đi Nam Bộ phải ghé qua sân bay Quy Nhơn đón đồng chí Lê Duẩn mà giấy ủy nhiệm của Bộ Tổng tư lệnh ta ghi đồng chí Lê Duẩn mang tên Trương Ban là sĩ quan được cử vào Nam Bộ. Phía Pháp còn dùng máy bay chở các sĩ quan ta đi rải Thư hiệu triệu của Hồ Chủ tịch, Nhật lệnh và Lệnh ngừng bắn của Bộ Tổng tư lệnh ta xuống các vùng xa xôi, hẻo lánh ở Liên khu 5 và Nam Bộ. Bắc Bộ đã hoàn toàn ngừng tiếng súng.

Ngày 27-7-1954, Hội nghị quân sự Trung Giã kết thúc công việc, chuyển thành Ủy ban Liên hợp Trung ương là cơ quan thi hành Hiệp định Genève và vẫn làm việc thời gian đầu ở Trung Giã, vẫn có Trưởng đoàn Việt Nam là Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, với chương trình thảo luận, giải quyết các vấn đề: Quy chế khu phi quân sự, trao trả tù binh, chuyển quân, tập kết lực lượng của hai bên, chuyển giao và tiếp quản các khu vực, trong đó có kế hoạch cụ thể ta tiếp quản thủ đô Hà Nội.

Hội nghị quân sự Trung Giã diễn ra chỉ trong 24 ngày cách đây đúng nửa thế kỷ có một ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị Genève đưa ra giải pháp toàn bộ nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ðông Dương, còn Hội nghị quân sự Trung Giã bàn cách thực hiện ngừng bắn và chính sách đối với tù binh, kiến nghị những vấn đề liên quan gửi đến Hội nghị Genève và đặc biệt đã chuẩn bị tốt những điều kiện cần thiết để thực hiện ngừng bắn đúng ngày giờ như Hiệp định Genève đã quy định và tạo cơ sở thuận lợi cho hoạt động của Ủy ban Liên hợp Trung ương.

Ðoàn đàm phán Việt Nam ở Hội nghị quân sự Trung Giã đã hoàn thành nhiệm vụ do Hồ Chủ tịch giao, dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, góp một trang đẹp vào pho sử vàng vẻ vang của nền ngoại giao Việt Nam.

HỒNG HÀ