Tạo “bệ đỡ” cho các địa phương PHÁT TRIỂN BỨT PHÁ

Sáu Nghị quyết về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh 6 vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Chính trị đã tạo ra bước chuyển biến mới có tính đột phá cho các địa phương. Từ đây, các địa phương vừa phát huy được thế mạnh của mình, vừa thúc đẩy kết nối, giao thương để phát triển kinh tế liên vùng. Sau gần một năm hiện thực hóa Nghị quyết vào cuộc sống, mỗi địa phương đang có hướng đi riêng, đột phá trên hành trình kiến tạo những giá trị về mặt kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Tân Cảng Hải Phòng những ngày cuối năm đang vận hành tối đa công suất để xếp container lên 2 tàu xuất đi Mỹ và nội Á lên tới 2.500 teus/tàu. Công trường bến cảng 3, 4, 5, 6 cũng đang hối hả hoàn thiện hạ tầng dự kiến sẽ đưa vào hoạt động cuối năm 2023, đầu năm 2024. Khi “cảng cửa ngõ quốc tế” này đi vào hoạt động đồng bộ, Hải Phòng dự kiến đón tàu tải trọng lên tới 200 nghìn tấn, tiếp nhận được nhiều tàu hàng lớn tại châu Âu, có thể cạnh tranh với nhiều cảng quốc tế lớn quanh khu vực, trở thành trung tâm kinh tế biển hàng đầu ở Đông Nam Á, giúp miền bắc trở thành mắt xích quan trọng kết nối các vành đai kinh tế trong chuỗi hoạt động logistics của cả nước.

Đây là một hướng đi thành công của TP Hải Phòng trong hiện thực hóa Nghị quyết 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng trong gần một năm qua.

Giám đốc Cảng vụ Hải Phòng Nguyễn Anh Vũ cho chúng tôi hay, 5 năm đi vào hoạt động, lượng hàng thông quan tại Tân cảng Hải Phòng đạt trên 100% công suất thiết kế với khoảng 1,2 triệu teu/năm. Hiện cảng đang tiếp nhận được tàu có trọng tải đến 145.000 dwt (tấn), và dự kiến sẽ tiếp nhận tàu lên tới 160.000 tấn vào cuối năm.

Ra đời sau và còn non trẻ, cảng MPC đang vươn lên với thế mạnh phục vụ tuyến vận chuyển gần và sang thị trường nội Á. Đặc biệt, đây là bến cảng đầu tiên trên cả nước đủ khả năng đáp ứng vận chuyển xuất khẩu ô-tô với 2 chuyến xuất khẩu cho ô-tô Vinfast thành công sang thị trường Mỹ.

Tổng Giám đốc cảng MPC Nguyễn Xuân Giang tâm sự, mới đi vào hoạt động 3 năm, còn nhiều khó khăn, nhưng MPC nhìn thấy tiềm năng còn bỏ ngỏ của thị trường cảng biển. “MPC có thuận lợi ngay gần cửa biển, giúp các doanh nghiệp rút ngắn thời gian vận chuyển, giảm thiểu chi phí một cách tối đa. MPC cũng là cảng đi tiên phong vừa vận chuyển hàng container, vừa làm hàng tổng hợp. Đặc biệt, các cảng biển khác trên cả nước chỉ nhập khẩu ô-tô thì chúng tôi là cảng đầu tiên có kết cấu phù hợp với các tàu xuất khẩu ô-tô. Tiến tới, chúng tôi sẽ triển khai dự án năng lượng sạch trong vận chuyển hàng hải”, ông Giang chia sẻ.

Khu vực cảng biển Hải Phòng có 102 cầu bến bốc xếp hàng hóa với tổng chiều dài cầu cảng khoảng 13,5km. Cảng biển Hải Phòng được xếp vào nhóm các cảng quan trọng nhất trong hơn 500 cảng biển của khu vực Đông Nam Á. Nằm trong 2 hành lang kinh tế Côn Minh-Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng và Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng, trong khu vực Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, Hải Phòng có vị trí quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với Trung Quốc và các nước trong khu vực…

Hiện thực hóa Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển Vùng đồng bằng sông Hồng, những năm qua, TP Hải Phòng tập trung phát triển theo mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại, mang tầm quốc tế, hàng đầu ở Đông Nam Á, là cửa ngõ, động lực phát triển của vùng.

Phát huy vai trò đầu tàu của tam giác động lực tăng trưởng Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh, phối hợp xây dựng khu vực Hải Phòng-Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại, mang tầm quốc tế, hàng đầu ở Đông Nam Á. Phát triển kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển. Tập trung mọi nguồn lực để đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển và phát huy vai trò động lực các khu kinh tế ven biển gắn với đô thị ven biển, trung tâm du lịch, dịch vụ logistics. Tăng cường ứng dụng khoa học-công nghệ vào nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy hải sản; đào tạo nhân lực biển. Đầu tư, xây dựng Trường Đại học Hàng hải là trường trọng điểm quốc gia, nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, đào tạo nhân lực đạt trình độ ngang bằng các nước phát triển trong khu vực để phục vụ phát triển kinh tế biển.

Trích nội dung Kế hoạch số 60/KH-UBND của TP Hải Phòng thực hiện số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị

Theo đó, Hải Phòng đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng. Ông Vũ tâm sự, với vai trò là cảng biển cửa ngõ, trung chuyển quốc tế, cảng biển Hải Phòng không chỉ đáp ứng nhu cầu tàu trọng tải lớn đi các nước nội vùng châu Á mà còn nhằm hướng tới các tàu mẹ chạy tuyến viễn dương như Panamax, Post Panamax, New Panamax,… trên hành trình châu Á-châu Âu-châu Mỹ sẽ ghé Việt Nam.

“Khi cảng biển được xây dựng đồng bộ, hàng hóa từ Việt Nam sẽ không phải trung chuyển qua Hồng Kông (Trung Quốc), Kao Hùng nữa mà sẽ được vận chuyển trực tiếp bằng tàu mẹ… thu hút các tàu trọng tải lớn vào Việt Nam, tăng nguồn doanh thu cho địa phương. Khi đó, Hải Phòng sẽ thành đầu mối vận chuyển lớn sang một số nước quanh khu vực và nội địa”, Giám đốc Nguyễn Anh Vũ nói.

Bên cạnh đó, Hải Phòng đang thúc đẩy việc xây dựng, nâng cao năng lực cảng Chùa Vẽ, cảng Đình Vũ. Xây dựng mới cảng khu công nghiệp Nam Đình Vũ, cảng Nam Đồ Sơn, sông Văn Úc. Xây dựng mới các cảng hành khách đầu mối tại khu vực Bến Bính và đảo Cát Hải, Cát Bà.

Từ thành công của Tân cảng Hải Phòng, thành phố đang thúc đẩy các doanh nghiệp xúc tiến triển khai nhanh xây dựng từ bến 3 đến bến 12 tại khu vực Lạch Huyện. Nhờ vị trí nằm ở đầu luồng hàng hải Hải Phòng, thời gian hàng hải trên luồng cũng sẽ được rút ngắn hơn so với các bến phía trong sông Bạch Đằng, sông Cấm; tiếp nhận được cỡ tàu trọng tải lớn đến 8.000 teus (khoảng 145.000DWT), tiếp nhận trực tiếp được tàu mẹ để đi các tuyến biển xa sang châu Mỹ, châu Âu, Nam Á,… mà không cần phải trung chuyển sang các cảng như Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc), Cao Hùng,… vì vậy thời gian vận chuyển hàng hoá, logistics được rút ngắn từ 3-5 ngày so với hiện nay.

“TP Hải Phòng hội tụ đủ mô hình về giao thông vận tải. Tuy nhiên, để tương xứng với kỳ vọng là một trung tâm liên kết vùng còn nhiều vấn đề phải tiếp tục xây dựng và phát triển, trong đó cần phải ưu tiên xây dựng khu vực bến cảng Lạch Huyện thành cảng cửa ngõ quốc tế theo mục tiêu Chính phủ đặt ra”, ông Vũ bày tỏ.

Hệ thống cảng biển ở Hải Phòng chiếm đến 70% lượng container và hơn 50% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ở khu vực này. Giai đoạn 5 năm gần đây, lượng hàng hóa được vận chuyển qua Hải Phòng tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 3,94%/năm, trong đó container đạt 5,2%. Thành phố Hải Phòng thu hút vốn FDI đạt 5,149 tỷ USD, cao nhất cả nước, tăng gần 3,4 lần so với cùng kỳ năm trước.

Vận dụng sáng tạo Nghị quyết vào cuộc sống, phù hợp với tình hình của địa phương, gần một năm qua, Quảng Ngãi cũng đã đạt được một số kết quả nhất định trong phát triển kinh tế cảng biển. Phát triển kinh tế cảng biển, đưa một số cảng có thông thương lớn với thị trường quốc tế, là đầu mối xuất nhập hàng lưu thông cho hàng nội địa là một trong những nội dung quan trọng mà Quảng Ngãi đang hiện thực hóa Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 của Bộ Chính trị về “Phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ”.

Theo đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị có những định hướng chiến lược phù hợp với lợi thế phát triển của tỉnh Quảng Ngãi. Quảng Ngãi là tỉnh có vị trí chiến lược, nằm trong vùng kinh tế động lực miền Trung. Khu kinh tế Dung Quất là một trong những khu kinh tế tiên phong và thành công trong cả nước với hệ thống giao thông kết nối với các địa phương, vùng trong cả nước được tích cực đầu tư đồng bộ, theo hướng hiện đại với hệ thống cảng biển nước sâu Dung Quất, nằm cạnh cảng hàng không Chu Lai được quy hoạch thành cảng hàng không quốc tế.

Hiện thực hóa Nghị quyết, tỉnh Quảng Ngãi xác định 2 định hướng lớn liên quan trực tiếp đến Quảng Ngãi, đó là mở rộng và xây dựng trung tâm lọc, hoá dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất và phát triển huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trở thành trung tâm du lịch biển-đảo.

Hiện tỉnh đã thu hút được 2 dự án đầu tư kinh doanh cảng nâng tổng các dự án đầu tư cảng biển ở Khu kinh tế Dung Quất lên 9 hệ thống bến cảng và triển khai một số dự án trọng điểm trong Khu kinh tế Dung Quất như dự án nâng cấp, mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất; các dự án điện khí thuộc Trung tâm điện lực Dung Quất.

Đến nay, trên địa bàn Khu kinh tế Dung Quất và các khu công nghiệp Quảng Ngãi đã thu hút được 26 dự án thuộc lĩnh vực logistics; tích cực hỗ trợ các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm trên địa bàn, phối hợp với Bộ Công thương xây dựng Trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng Quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất.

Cùng với nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, tỉnh Quảng Ngãi đã cân đối nguồn lực của địa phương để thi công và thực hiện hoàn chỉnh thủ tục đầu tư các dự án như: đường ven biển Dung Quất- Sa Huỳnh, giai đoạn 2a; đường Hoàng Sa-Dốc Sỏi; đường Trì Bình-Cảng Dung Quất; đê chắn sóng cảng Bến Đình; đê chắn cát, giảm sóng và nạo vét thông luồng vào khu neo đậu tránh trú bão cảng cá Sa Huỳnh; công viên Quảng trường biển, kết hợp khu đô thị-dịch vụ sinh thái thành phố Quảng Ngãi; nâng cấp, sửa chữa, hoàn thiện hạ tầng các cảng cá, cảng neo đậu tàu thuyền....

“Chúng tôi tích hợp đầy đủ các nội dung đề xuất quy hoạch, đầu tư phát triển chuỗi đô thị ven biển và hải đảo với hạ tầng đồng bộ, hiện đại từng bước hình thành các khu đô thị, dịch vụ sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là các đô thị dọc theo tuyến đường Dung Quất-Sa Huỳnh”, đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân chia sẻ.

Nghị quyết số 26-NQ/TW tạo cơ sở rất quan trọng và thuận lợi để tỉnh Quảng Ngãi quy hoạch phát triển, đầu tư và thu hút đầu tư các dự án trọng điểm, tạo nền tảng và động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh Quảng Ngãi.
Đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Tỉnh Quảng Ngãi đã tích cực làm việc với các bộ, ngành, cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện hồ sơ và các thủ tục cần thiết để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch tỉnh Quảng Ngãi được phê duyệt sẽ là cơ sở quan trọng để tỉnh Quảng Ngãi thu hút đầu tư, phát triển các ngành kinh tế biển như: Du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và các tài nguyên, khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển khác.

Hệ thống cảng Thành phố Hồ Chí Minh là một trong 20 cảng thông qua lớn nhất thế giới năm 2020 cũng đang dần trở thành “trụ đỡ” cho phát triển vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.

Là "đầu tàu" kinh tế khu vực miền trung, đồng chí Lương Nguyễn Minh Triết, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng cho biết, ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng kịp thời chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương quán triệt, tuyên truyền và xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW với 5 nhóm mục tiêu và 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể.

Một trong những nội dung mà Đà Nẵng ưu tiên triển khai đó là kịp thời nghiên cứu, xây dựng và trình cấp thẩm quyền xem xét Đề án Xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm tài chính quốc tế quy mô khu vực.

Với tiềm năng và thế mạnh về biển, xuyên suốt 3 kỳ đại hội Đảng bộ thành phố gần đây, Đà Nẵng luôn chủ trương khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế về biển để phát triển với tốc độ cao, bền vững và hiệu quả; nghiên cứu từng bước xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị du lịch ven biển chất lượng cao; xác định lấy kinh tế biển làm chủ đạo cho sự phát triển bền vững của thành phố với mục tiêu xây dựng Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh tế biển lớn của cả nước, đô thị biển quốc tế trên cơ sở phát triển mạnh các ngành kinh tế biển, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường; đóng góp của các ngành kinh tế thuần biển vào tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố đạt 10% vào năm 2025 và 15% vào năm 2030. Mục tiêu đến năm 2045, Đà Nẵng trở thành thành phố phát triển kinh tế biển bền vững và thịnh vượng.

Một giải pháp điển hình, khác biệt mà thành phố Đà Nẵng đã triển khai khi đây là địa phương đầu tiên đã cho tiến hành nghiên cứu, xây dựng Bộ Chỉ số phát triển bền vững các ngành kinh tế biển, kinh tế thuần biển cấp tỉnh - BEI (Blue Economy Indicators). Bộ chỉ số này được xây dựng trên cơ sở tiếp cận lý luận liên quan đến phát triển bền vững, phát triển bền vững kinh tế biển; tiếp cận các tiêu chí đó lường kinh tế biển xanh; và tập trung nghiên cứu tổng quan các mục tiêu phát triển bền vững đã có liên quan đến các phát triển kinh tế biển. BEI giúp xác định rõ thực tiễn tốt trong phát triển bền vững kinh tế biển tại đại phương, nhờ đó có thể nhân rộng mô hình, tập tập kinh nghiệm giữa các địa phương có biển trên phạm vi cả nước; góp phần hướng đến mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển của Việt Nam.

Hiện cả nước đang có 4 cực tăng trưởng gồm Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Theo tinh thần của sáu Nghị quyết về sáu vùng kinh tế, việc kết nối các cực tăng trưởng, thúc đẩy nhanh cao tốc bắc-nam tạo hành lang kinh tế dọc, liên thông các vùng là nội dung quan trọng để thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế vùng.

Theo đồng chí Hà Minh Hải, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội nhấn mạnh, Nghị quyết 30/NQ-TW được xem là một căn cứ để Hà Nội nghiên cứu, đề xuất Quốc hội xem xét sửa đổi Luật Thủ đô 2012 và lập Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065, trong đó, xây dựng Hà Nội trở thành thành phố thông minh, hiện đại, có bản sắc, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước.

Xác định vị trí là một trong bốn cực tăng trưởng của cả nước, có vai trò dẫn dắt toàn vùng đồng bằng sông Hồng, ngày 3/2/2023, Thành uỷ Hà Nội ban hành Chương trình hành động 23-CTr/TU; ngày 09/5/2023, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 140/KH-UBND; trong đó đặt mục tiêu “Đến năm 2030: Xây dựng Thủ đô Hà Nội "Văn hiến-Văn minh-Hiện đại", trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước, phấn đấu phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực. Đến năm 2045, Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố kết nối toàn cầu, ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”, đồng thời đề ra 20 chỉ tiêu chủ yếu (10 về phát triển kinh tế; 5 về phát triển văn hóa, xã hội; 5 về phát triển đô thị) và 55 nhiệm vụ cụ thể giao các sở, ban, ngành thực hiện.

Kế hoạch 140/KH-UBND đề ra 8 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, trong đó Thành phố đang chỉ đạo tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và liên kết vùng, cụ thể là rà soát, sửa đổi Luật Thủ đô (dự kiến báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội trong năm 2024); Trình duyệt Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 trong năm 2024.

“Ba nội dung quan trọng này dự kiến sẽ được Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6. Khi được Quốc hội thông qua, đây sẽ là con đường phát triển của Thủ đô trong 20-40 năm tới, cho nên ý nghĩa rất hệ trọng”, đồng chí Hà Minh Hải cho hay.

Là cực tăng trưởng ở phía nam, Cần Thơ đang thể hiện vai trò dẫn dắt Vùng đồng bằng sông Cửu Long. theo ông Phạm Văn Hiểu, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Cần Thơ, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là Nghị quyết quan trọng giúp định hướng vùng phát triển toàn diện trong thời gian tới. Thành phố Cần Thơ với vị trí, vai trò là trung tâm vùng đang nỗ lực thực hiện Nghị quyết này và các Nghị quyết của Trung ương. Một số địa phương trong vùng cũng công bố quy hoạch tỉnh để khai thác lợi thế, tiềm năng cùng phát triển.

Ngoài 4 cực tăng trưởng đã được định hình, tỉnh Thái Nguyên đang vươn lên trở thành một cực tăng trưởng ở khu vực Trung du và miền núi Bắc Bộ với những bước chuyển mình mạnh mẽ về kinh tế. Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban cán sự Đảng bộ Thái Nguyên đã ban hành các chương trình, kế hoạch để thực hiện Nghị quyết. Đồng thời tỉnh cũng tiến hành tuyên truyền để người dân địa phương, cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành, các cấp ủy nắm rõ nội dung và vị trí của Thái Nguyên trong Nghị quyết.

Đồng chí Nguyễn Thanh Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên nhấn mạnh, Nghị quyết số 11 nêu rõ, với vị trị địa chính trị quan trọng, Thái Nguyên được định hướng trở thành trung tâm công nghiệp, logistics của vùng.

“Thái Nguyên không chỉ là trung tâm vùng mà còn là cửa ngõ của vùng trung du miền núi phía Bắc với vùng đồng bằng sông Hồng. Với sự đầu tư vào giáo dục và y tế, Thái Nguyên còn cung cấp nguồn nhân lực cho các tỉnh lân cận trong lĩnh vực chăm sóc khám, chữa bệnh và an sinh xã hội. Nhận thấy vai trò quan trọng của Nghị quyết, tỉnh đã có kế hoạch tuyên truyền, triển khai. Hiện nay, việc triển khai đang ở giai đoạn đầu và đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ”, đồng chí Nguyễn Thanh Hải chia sẻ.

Cao tốc bắc-nam cùng nhiều tuyến đường giao thông kết nối liên tỉnh đã hình thành trục nối chung, tạo hành lang kinh tế dọc toàn quốc, giúp các vùng liên thông kinh tế một cách thuận lợi. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển. Liên kết vùng, chỉ thật sự thuận lợi khi hạ tầng giao thông được thông suốt. Bởi vậy, các vùng đều đang thúc đẩy nhanh hoàn thiện hạ tầng giao thông, để tạo thông thương thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Tại Vùng đồng bằng sông Hồng, “đầu tàu” của vùng là Thủ đô Hà Nội đã khởi công đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô từ ngày 25/6/2023. Đồng chí Dương Đức Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cho biết, với quy mô đầu tư 85.813 tỷ đồng, kéo dài 112,8km, đi qua ba tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh, dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4-Vùng Thủ đô Hà Nội là dự án quan trọng quốc gia, được Chính phủ, Quốc hội rất quan tâm, tạo mọi điều kiện triển khai thực hiện, đồng thời cũng đòi hỏi rất cao về tiến độ thực hiện.

Việc đầu tư tuyến đường Vành đai 4 trong giai đoạn hiện nay là cần thiết, không chỉ khắc phục tình trạng quá tải về giao thông, mà quan trọng hơn là mở rộng không gian, khai thác hiệu quả hàng nghìn hec-ta đất phía tây đường Vành đai 4; phát triển các khu đô thị, công nghiệp hai bên tuyến đường trên địa phận tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh và thành phố Hà Nội, từ đó góp phần cơ cấu lại kinh tế, thu hút đầu tư các địa phương, tăng khả năng liên kết, giao thương hàng hóa với các tỉnh, thành phố trong Vùng Thủ đô, cũng như vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng.

Đường vành đai 4-Vùng Thủ đô là dự án quan trọng quốc gia đi qua địa bàn của 3 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh, tạo hành lang vận tải liên vùng quan trọng, giảm tải áp lực cho giao thông khu vực nội đô, góp phần xây dựng Thủ đô là một trong các cực tăng trưởng của cả nước; phát triển trở thành đô thị hiện đại, thông minh, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị…

Đồng chí Dương Đức Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh Ngô Tân Phượng nêu rõ, dự án đường Vành đai 4 khi hoàn thành sẽ góp phần xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội của từng địa phương, trong đó có tỉnh Bắc Ninh, thực hiện quy hoạch vùng tỉnh, đẩy nhanh lộ trình nâng cấp các đô thị và quá trình đô thị hóa, phấn đấu cơ bản đạt các tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương.

Trong khi đó, Giám đốc Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hưng Yên Trịnh Văn Diễn cho biết: Đường Vành đai 4-Vùng Thủ đô Hà Nội và hệ thống đường song hành, cùng với các dự án giao thông trọng điểm trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, như tuyến đường Tân Phúc-Võng Phan, tuyến đường kết nối di sản dọc tuyến đê sông Hồng từ Văn Giang đến thành phố Hưng Yên…  sẽ tăng cường khả năng kết nối tỉnh với Thủ đô Hà Nội và các địa phương khác trong vùng đồng bằng sông Hồng. Khi tuyến đường lưu thông sẽ tạo động lực, tác động lan tỏa liên vùng, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển; giải quyết nhu cầu giao thông cho tỉnh Hưng Yên với các khu vực trung tâm, đô thị, cảng hàng không Nội Bài; tạo điều kiện đi lại, lưu thông cho chuỗi đô thị lớn: Ecopark, Dream city, đô thị Đại An, các huyện phía bắc…

Xác định tầm quan trọng của dự án cũng như lường trước những vướng mắc có thể phát sinh trong quá trình triển khai, cả hệ thống chính trị của Hà Nội, Bắc Ninh và Hưng Yên đã vào cuộc với tinh thần chủ động, rốt ráo. Đến nay công tác triển khai dự án đã đạt kết quả tích cực, nhất là công tác giải phóng mặt bằng. Nhờ đó, chỉ một năm kể từ khi Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư vào tháng 6/2022, dự án trọng điểm quốc gia này đã chính thức được khởi công.

Đồng chí Dương Đức Tuấn cho biết, đến nay các địa phương tại Hà Nội đã phê duyệt và thu hồi đất được 717,8ha, đạt 90,70%. Các quận, huyện đã khởi công, đang thực hiện 8 khu tái định cư. Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông Hà Nội đã nhận 647,65ha, đạt 90,22% so diện tích đất đã thu hồi giải phóng mặt bằng để tổ chức rà phá bom mìn, bàn giao cho các nhà thầu thi công xây dựng.

Tại Hưng Yên, theo Giám đốc Ban Quản lý dự án công trình giao thông (Sở Giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên) Hoàng Hải Bình, hiện nay các địa phương đã cơ bản hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng diện tích đất nông nghiệp và đang triển khai công tác giải phóng mặt bằng đất ở, đất doanh nghiệp, đất tái định cư, đất di dời hệ thống lưới điện…; diên tích đất đã chi trả tiền bồi thường, thu hồi bàn giao cho chủ đầu tư được hơn 186ha, đạt 81,1% kế hoạch (đến ngày 24/10). Trong khi đó, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh Ngô Tân Phượng cho biết, đến ngày 18/10, tỉnh đã thu hồi, giải phóng mặt bằng khoảng 310ha, đạt gần 84% diện tích phục vụ dự án. Diện tích cần thu hồi chỉ còn khoảng hơn 60ha liên quan đến đền bù đất ở, tái định cư.

Bằng nhiều nguồn vốn, thành phố Hải Phòng đang và sẽ đầu tư phát triển khu cảng cửa ngõ Lạch Huyện, Sân bay quốc tế Cát Bi-Hải Phòng, hệ thống đường bộ cao tốc Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh, cầu Tân Vũ… Sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp với các ngành nghề kinh doanh mang tính chất xuất nhập khẩu cao đã tạo nguồn hàng hóa cho việc thúc đẩy đầu tư, khai thác các cầu, bến cảng trong khu vực cảng biển Hải Phòng.

Riêng tuyến đường thủy nội địa, hàng hải Hải Phòng đang khơi thông tiềm lực kênh Hà Nam để duy trì tàu cỡ nhỏ, trung bình vận chuyển hàng hóa. Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao khả năng hoạt động hành lang đường thủy số 1, thi công nâng tĩnh không cầu sông Đuống để nâng lên đến 4 lớp container, giúp tăng luồng lưu thông hàng hóa nội thủy đến nhiều địa phương.

Là "cửa ngõ" phía nam khu vực miền bắc, cũng là "cửa ngõ phía nam của Nền văn minh sông Hồng"; thuộc hành lang kinh tế quốc gia Bắc-Nam; hành lang kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Kim Sơn (Ninh Bình); điểm kết nối, giao thoa, chuyển tiếp của 3 vùng kinh tế: Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Vùng rừng núi Tây Bắc và Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ, tỉnh Ninh Bình đang có nhiều ưu thế để phát triển kinh tế và thực hiện liên kết với các vùng.

Đồng chí Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình chia sẻ, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 22, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định một trong ba khâu đột phá của tỉnh là tập trung đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ, hiệu quả, chất lượng. Tỉnh Ninh Bình đã triển khai thực hiện quyết liệt, đã phát huy, khẳng định quan điểm này đúng, ngày càng hiệu quả. Điều đó thể hiện rất rõ từ sự thay đổi ngay trong tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự phấn khởi của nhân dân, của các nhà đầu tư.

Trung ương và tỉnh Ninh Bình đã và đang chú trọng, quan tâm đầu tư phát triển hệ thống kết cấu giao thông đồng bộ, phục vụ và thúc đẩy quá trình kết nối vùng, liên vùng, như: Đường Quốc lộ 1A, Tuyến đường bộ cao tốc Bắc -Nam phía Đông; tuyến đường bộ ven biển từ Quảng Ninh đến Nghệ An; tuyến đường bộ cao tốc Hải Phòng-Ninh Bình; hệ thống đường nội tỉnh kết nối các vùng trong tỉnh với nhau và kết nối với các trục đường của quốc gia…

“Thời gian di chuyển kết nối bằng đường bộ từ Ninh Bình đến Hà Nội khoảng 1 giờ đồng hồ; đến Hải Phòng chỉ khoảng 2 giờ và đến Quảng Ninh chưa đến 3 giờ. Đây cũng là điều kiện thuận lợi về vận tải, thông thương với các tỉnh trong cả nước và quốc tế, tạo lợi thế để phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp, du lịch, dịch vụ, lưu thông hàng hóa, giao lưu văn hóa…”, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình Phạm Quang Ngọc chia sẻ.

Minh chứng về một điểm sáng trong phát triển kinh tế có tính liên kết vùng, đồng chí Phạm Quang Ngọc cho hay, DOVECO (tiền thân là Nông trường Đồng Giao (thành phố Tam Điệp) được biết đến với tư cách là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng ngành nông sản Việt Nam, là cầu nối giữa thị trường nông sản quốc tế với công ty thương mại, nhà sản xuất, người nông dân và người tiêu dùng trong nước.

Theo ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty DOVECO, hiện nay, công ty đã phát triển mạng lưới liên kết nông sản với rất nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc liên kết giữa các vùng trồng nông sản ở các địa phương khác nhau sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn, vừa đa dạng về thổ nhưỡng sẽ tạo ra những sản phẩm rau, củ, quả có chất lượng tốt.

Giai đoạn 2020-2022, mặc dù chịu tác động nặng nề của dịch Covid-19, nhưng Ninh Bình vẫn thuộc nhóm các tỉnh đạt tăng trưởng dương. Trong 6 tháng đầu năm 2023, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh đạt 7,56%, đứng thứ 12 toàn quốc và đứng thứ 6 vùng đồng bằng sông Hồng.

Đến nay, Công ty đã có vùng nguyên liệu ổn định từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hà Nam, Sơn La, Hà Giang, Lào Cai, Bắc Kạn, hàng năm cung cấp trung bình hơn 30.000 tấn rau, quả các loại. Công ty đã hình thành chuỗi sản xuất khép kín hiện đại đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh. Không chỉ chinh phục khách hàng trong nước, hiện sản phẩm DOVECO đã có mặt ở 55 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Nghị quyết Số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị ra đời như đã chắp cánh, tăng cường thêm niềm tin cho Ninh Bình tiếp tục đoàn kết, sáng tạo và phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Thời gian tới Ninh Bình tiếp tục thực hiện tốt hơn khâu đột phá về phát triển hạ tầng giao thông, nhằm tạo ra không gian, dư địa, động lực và lợi thế phát triển mới để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội. Từ đó tạo ra sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển; cân bằng được nhu cầu thực tế phát triển với bảo tồn.

Đồng chí Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình

Tại Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Nghệ An đang là một địa phương vươn lên phát triển mạnh về kinh tế. Đồng chí Nguyễn Đức Trung, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An cho hay, Nghệ An đang hướng đến là một trong những trung tâm sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử, thiết bị điện tử thông minh của cả nước. Nghệ An đứng đầu 14 tỉnh, thành phố thuộc khu vực Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ về thu hút vốn FDI. 9 tháng đầu năm 2023, Nghệ An lần đầu tiên đã lọt vào tốp 6 tỉnh, thành phố có chỉ số thu hút FDI cao nhất cả nước.

Lý giải về một trong những thành công của hoạt động thu hút FDI, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung cho biết:  Nghệ An đã và đang chuẩn bị "5 sẵn sàng" về: Mặt bằng; hạ tầng thiết yếu; nguồn nhân lực; đổi mới, cải thiện thực chất môi trường đầu tư, kinh doanh và sẵn sàng hỗ trợ để thu hút các nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài... Về mặt bằng, ngoài vấn đề quy hoạch mở rộng Khu kinh tế Đông Nam, Nghệ An đã và đang thúc đẩy, hỗ trợ các nhà đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp. Trong đó, các nhà đầu tư VSIP, WHA, Hoàng Thịnh Đạt đã, đang hoàn thành đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp VSIP, WHA và Hoàng Mai 1 rộng cả nghìn ha. Cùng với đó, tỉnh cũng sẵn sàng các điều kiện để phát triển thêm các khu công nghiệp mới.

Theo đúng tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW, Nghệ An đang dần kết nối đồng bộ với vùng Bắc Trung Bộ, toàn quốc, nước bạn Lào và vùng đông bắc Thái Lan. Nghệ An đang gần hoàn thành các dự án giao thông quan trọng, như Dự án đường cao tốc Bắc-Nam phía đông đi qua địa bàn Nghệ An; quốc lộ ven biển; các dự án giao thông trong khu kinh tế Đông Nam… Qua đó, giúp việc đi lại, lưu thông hàng hóa được nhanh chóng và thuận lợi; đồng thời, kết nối các khu kinh tế, khu công nghiệp khu vực nam Thanh- bắc Nghệ, nam Nghệ-Bắc Hà xích lại gần hơn và có điều kiện khai thác chung hạ tầng thiết yếu, dịch vụ logistics… 

Tại tỉnh Quảng Ngãi, theo Bí thư Tỉnh ủy Bùi Thị Quỳnh Vân, tỉnh dành nguồn lực để tập trung đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong khu công nghiệp, khu kinh tế, đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống giao thông theo quy hoạch, ưu tiên các công trình trọng điểm có sức lan tỏa; đầu tư, đưa vào sử dụng các công trình hạ tầng giao thông quan trọng như: Dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi; đường ven biển Dung Quất-Sa Huỳnh (đoạn Dung Quất - Mỹ Khê); đường bờ nam sông Trà Khúc (đường Trường Sa); cầu Cổ Lũy; cảng Bến Đình; đường cơ động kết hợp kè biển chống sạt lở huyện Lý Sơn.

Cùng với nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, tỉnh đã cân đối nguồn lực của địa phương để thi công và thực hiện hoàn chỉnh thủ tục đầu tư các dự án như: đường ven biển Dung Quất- Sa Huỳnh, giai đoạn 2a; đường Hoàng Sa - Dốc Sỏi; đường Trì Bình-Cảng Dung Quất; đê chắn sóng cảng Bến Đình; đê chắn cát, giảm sóng và nạo vét thông luồng vào khu neo đậu tránh trú bão cảng cá Sa Huỳnh; công viên Quảng trường biển, kết hợp khu đô thị-dịch vụ sinh thái thành phố Quảng Ngãi; nâng cấp, sửa chữa, hoàn thiện hạ tầng các cảng cá, cảng neo đậu tàu thuyền.... Bên cạnh đó, tích hợp đầy đủ các nội dung đề xuất quy hoạch, đầu tư phát triển chuỗi đô thị ven biển và hải đảo với hạ tầng đồng bộ, hiện đại từng bước hình thành các khu đô thị, dịch vụ sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là các đô thị dọc theo tuyến đường Dung Quất-Sa Huỳnh.

Chỉ trong vòng 9 tháng đầu năm, Nghệ An cán mốc thu hút đầu tư FDI gần 1,3 tỷ USD – tính cả dự án đầu tư mới và tăng vốn; tăng 221,8% so cùng kỳ năm 2022. Với số vốn FDI trên, Nghệ An đứng đầu 14 tỉnh, thành phố vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ. Đây cũng lần đầu tiên, Nghệ An đã lọt vào tốp 6 tỉnh, thành phố có chỉ số thu hút FDI cao nhất cả nước, tăng hai bậc so với giữa năm 2023.

Ở cực nam tổ quốc, Vùng đồng bằng sông Cửu Long đang triển khai 4 tuyến tuyến cao tốc trục dọc và trục ngang, với chiều dài hơn 350km. Trong đó, cao tốc Cần Thơ- Cà Mau (dài hơn 110km), Châu Đốc- Cần Thơ-Sóc Trăng (dài 188km) là 2 tuyến trọng điểm có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển của vùng.  

Đồng chí Phạm Thiện Nghĩa, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp chia sẻ, Chính phủ cùng các địa phương trong vùng đang tập trung đầu tư nhiều dự án cao tốc, các tuyến đường liên vùng nhằm tăng cường kết nối hạ tầng giao thông, tạo đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội.

UBND tỉnh Đồng Tháp đã ban hành Kế hoạch số 342/KH-UBND ngày 06/12/2021 về việc thực hiện xây dựng các công trình giao thông trọng điểm trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, giai đoạn 2021-2025, với 26 danh mục công trình trọng điểm, 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và phân công nhiệm vụ cụ thể, trách nhiệm đối với từng sở, ban, ngành và chỉ đạo UBND cấp huyện tổ chức thực hiện toàn diện. 

Hiện nay, tỉnh Đồng Tháp đã và đang chuẩn bị triển khai các dự án trọng điểm quốc gia như: cao tốc Cao Lãnh-An Hữu giai đoạn 1, tuyến cao tốc Mỹ Thuận-Cần Thơ, tuyến cao tốc Mỹ An-Cao Lãnh, tuyến cao tốc Cao Lãnh-Lộ Tẻ.

Các dự án khi hoàn thành sẽ góp phần hình thành mạng lưới đường cao tốc vùng đồng bằng sông Cửu Long, đáp ứng nhu cầu vận tải, tạo không gian kết nối và phát triển vùng, kết nối các trung tâm kinh tế, cửa khẩu quốc tế và cảng biển; phát triển cụm liên kết ngành; nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo động lực liên kết, thúc đẩy hợp tác và phát triển vùng, từng bước thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.

Với sự quyết tâm của các cấp, các ngành, việc tuyên truyền, vận động được thực hiện ngay từ những ngày đầu triển khai dự án, qua đó giúp người dân hiểu và chung sức cùng địa phương. Cùng sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp, các ngành và sự đồng thuận của người dân, đến nay diện mạo hạ tầng giao thông của tỉnh Đồng Tháp hiện đã có những thay đổi vượt bậc. Trong tương lai không xa, hệ thống mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông của Đồng Tháp cơ bản hoàn thiện, các trục giao thông trọng điểm quốc gia được thông suốt, kết nối giao thông vận tải thuận lợi.

Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa

Là tỉnh đang có khao khát vươn lên trở thành cực tăng trưởng mới ở Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, Thái Nguyên được Chính phủ đầu tư xây dựng tuyến đường liên kết vùng, nối giữa 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Vĩnh Phúc. Hiện nay, tổng mức đầu tư của dự án là hơn 3.000 tỷ đồng, trong đó là vốn của trung trương là khoảng 1.700 tỷ đồng, vốn đối ứng của địa phương là 1.800 tỷ đồng. Theo tiến độ, dự án sẽ được hoàn thành vào khoảng quý 4 năm 2024, về đích trước tiến độ khoảng 1 năm.

“Quá trình chuẩn bị, triển khai dự án của Thái Nguyên được làm rất bài bản, là một trong những tỉnh đầu tiên sử dụng được nguồn vốn đầu tư công trung hạn là do Trung ương phân bổ. Với con đường liên vùng này, chúng tôi hy vọng tỉnh sẽ có những bước đổi mới, đột phá trong thu hút, phát triển công nghiệp, đặc biệt là phát triển liên kết vùng”, đồng chí Nguyễn Thanh Hải, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên bày tỏ tâm huyết.

Cũng theo đồng chí Nguyễn Thanh Hải, việc đầu tư cơ sở hạ tầng đường giao thông, cụ thể là tuyến đường liên vùng dài khoảng 46km nối Thái Nguyên, Bắc Giang, Vĩnh Phúc sẽ mở ra nhiều cơ hội để thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như vốn FDI. Ngoài ra, hệ thống giao thông nội tỉnh cũng được địa phương đầu tư với nguồn ngân sách khá lớn. Cụ thể, các nguồn tăng thu cuối năm, cuối nhiệm kỳ đều được Thái Nguyên dùng để đầu tư cho hệ thống này. Ngay sau khi Nghị quyết 11 được ban hành, trong năm 2023, tỉnh Thái Nguyên đã ký kết phối hợp nhiều hoạt động với tỉnh Bắc Giang.

“Nếu có đủ nguồn lực để thực hiện chính sách, đẩy mạnh liên kết vùng, các hoạt động sẽ rất hiệu quả, tiết kiệm. Khi đó, các tỉnh có thể khai thác nhiều tiềm năng, thế mạnh chung để thu hút nhiều nhà đầu tư lớn. Các doanh nghiệp có thể đầu tư vào Thái Nguyên vì có tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh ở bên cạnh, hoặc ngược lại”, đồng chí Nguyễn Thanh Hải khẳng định.

Thái Nguyên được Chính phủ đầu tư xây dựng tuyến đường liên kết vùng, nối giữa 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Vĩnh Phúc. Hiện nay, tổng mức đầu tư của dự án hơn 3.000 tỷ đồng, trong đó vốn của trung ương khoảng 1.700 tỷ đồng, vốn đối ứng của địa phương là 1.800 tỷ đồng. Theo tiến độ, dự án sẽ được hoàn thành vào khoảng quý 4 năm 2024, về đích trước tiến độ khoảng 1 năm.

Tại Vùng Đông Nam Bộ, tỉnh Bình Dương sớm nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong lan tỏa, kết nối và thúc đẩy sự phát triển chung của vùng Đông Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Để đạt được mục tiêu Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra, một trong những giải pháp quan trọng là đẩy mạnh hợp tác, phát triển cộng hưởng với các tỉnh trong vùng, đặc biệt là các địa phương giáp ranh trong vùng như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước tạo không gian kinh tế thống nhất, khắc phục các điểm nghẽn, huy động tối đa các nguồn lực từ các thành phần kinh tế, kết hợp nguồn vốn giữa trung ương và địa phương, đẩy mạnh thu hút có chọn lọc các dự án FDI, tranh thủ nguồn vốn ODA, vốn tư nhân và các nguồn vốn hợp pháp khác để phát triển hạ tầng kinh tế, văn hóa-xã hội, công nghệ thông tin, đô thị, trọng tâm là phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm của tỉnh như Vành đai 3, Vành đai 4, cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Chơn Thành… kết nối các địa phương trong Vùng ra sân bay (Tân Sơn Nhất, Long Thành), cảng biển (Cái Mép-Thị Vải); phát triển ga Sóng Thần (Dĩ An) thành trung tâm vận chuyển hàng hóa trọng điểm của vùng Đông Nam Bộ, từ đó hàng hóa bằng đường sắt từ Bình Dương sẽ kết nối với Trung Quốc và các nước trên tuyến vận tải đường sắt Á-Âu.

Tỉnh định hướng đến cuối năm 2045 phải cơ bản hoàn thành hệ thống giao thông kết nối nội vùng, liên vùng, trở thành đầu mối giao thương, hội nhập khu vực và thế giới; đổi mới căn bản mô hình tăng trưởng, tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, nhất là phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao theo hướng trở thành các trung tâm tài chính, trung tâm thương mại, trung tâm giáo dục, trung tâm chăm sóc sức khỏe tầm cỡ khu vực và thế giới, các dịch vụ khác. Phát triển công nghiệp thế hệ mới hình thành các khu công nghiệp chuyên ngành, khu công nghiệp khoa học công nghệ, công nghiệp xanh, công nghiệp tuần hoàn, công nghiệp 4.0 tạo lập một vành đai công nghiệp.

Tỉnh Bình Dương đã khởi công đường Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh qua địa bàn và năm 2025 sẽ vận hành. Đối với đường Vành đai 4 sẽ được tiếp tục khởi công vào đầu năm 2024 và giữa năm 2024 tỉnh Bình Dương sẽ khởi công cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh đi Chơn Thành (Bình Phước). Tỉnh Bình Dương cũng đã đề xuất Tổng lãnh sự và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) giúp tỉnh để nghiên cứu tuyến đường sắt xuyên Á và kể cả tuyến đường sắt đô thị. Sau năm 2025, hệ thống giao thông của tỉnh Bình Dương kết nối với cảng biển, kết nối với sân bay rất thuận lợi.   

Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương Nguyễn Văn Lợi

Theo đồng chí Võ Văn Minh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, đối với giải pháp hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đô thị, Nghị quyết số 24-NQ/TW đã xác định cần thiết phải “Hình thành vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ, logistics dọc hành lang Vành đai 3, Vành đai 4 và các tuyến cao tốc của vùng”.  Vì vậy, trong quá trình xây dựng quy hoạch tích hợp, hiện nay tỉnh Bình Dương đã quy hoạch các khu vực phát triển đô thị, khu vực phát triển công nghiệp dọc các tuyến vành đai-cao tốc này. Điều đó sẽ tạo ra một không gian phát triển mới với nhiều dư địa để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, di dời các doanh nghiệp/các khu công nghiệp trong đô thị không còn phù hợp quy hoạch, đồng thời tạo nguồn thu lớn từ quỹ đất để tái đầu tư phát triển.

Tây Nguyên là vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh và đối ngoại của quốc gia, được Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển. Đến nay đời sống người dân trong vùng đã có nhiều thay đổi về mọi mặt. Tiếp tục kế thừa và phát huy những kết quả đạt được trong những năm qua, trên cơ sở Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18/01/2002 và Kết luận số 12-KL/TW ngày 24/10/2011; ngày 6/10/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về “Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh vùng Tây Nguyên cho thấy vị trí, vai trò của vùng Tây Nguyên trong chiến lược phát triển cùng cả nước.

Theo đồng chí Nguyễn Đình Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, Tây Nguyên là vùng có vị trí chiến lược trong giữ vững an ninh quốc phòng. Nghị quyết số 23-NQ/TW là bước đột phá quan trọng mở ra cơ hội phát triển mới cho khu vực và là tiền đề, định hướng đặc biệt quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Lắk nói riêng có thể phát huy, khai thác có hiệu quả hơn nữa các tiềm năng, thế mạnh, vượt qua khó khăn, thách thức, tạo bước chuyển biến mới, mạnh mẽ trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng-an ninh.

Vùng đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đưa Tây Nguyên trở thành vùng phát triển bền vững, có nền kinh tế xanh, tuần hoàn; một số tỉnh trong vùng thuộc nhóm phát triển khá của cả nước.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 23-NQ/TW cũng là định hướng, căn cứ quan trọng cho tỉnh Đắk Lắk trong việc triển khai, xây dựng Quy hoạch, định hướng, chiến lược phát triển trong thời gian tới, kỳ vọng sẽ tạo được đột phá và có bước chuyển biến mới, bộ mặt mới với nhiều đóng góp mới cho toàn vùng nói riêng và đất nước nói chung trong thời kỳ chiến lược mới đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Ngay sau khi Nghị quyết số 23-NQ/TW được ban hành, Trung ương và các địa phương trong vùng đã khẩn trương triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết đề ra, đặc biệt Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả Nghị quyết số 23-NQ/TW như: Ban hành Nghị quyết số 152/NQ-CP ngày 15/11/2022, trong đó cụ thể hóa thành 23 nhiệm vụ cụ thể; 9 dự án đầu tư và hạ tầng giao thông kết nối của vùng.

Chính phủ đã thành lập Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên nhằm xác định cơ chế hoạt động, phương thức phối hợp trong việc đưa ra những hành động cấp vùng; lựa chọn lĩnh vực, nhiệm vụ ưu tiên của từng tiểu vùng, địa phương… để thúc đẩy sự phát triển của toàn vùng.

Lãnh đạo, chỉ đạo bộ, ngành có liên quan lập và tổ chức thực hiện quy hoạch vùng; xây dựng cơ chế, chính sách về phát triển vùng, liên kết vùng; các hoạt động xúc tiến, huy động nguồn vốn đầu tư phát triển để thực hiện các chương trình, dự án liên ngành, liên tỉnh, liên vùng… Bên cạnh đó, một số bộ, ngành Trung ương và các địa phương đã tổ chức các Hội nghị về liên kết vùng trong phát triển kinh tế để phát huy thế mạnh địa phương…

Qua đó, bước đầu đã tạo cơ sở cho các địa phương triển khai thực hiện Nghị quyết và tạo được sự liên kết, chia sẻ, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm hàng hóa giữa các địa phương, kết nối doanh nghiệp sản xuất…, tạo động lực phát triển kinh tế địa phương, cùng cả nước đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.

Tại vùng Đông Nam Bộ, Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng đặt ra nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại kết hợp với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo các quy hoạch, đề án, kế hoạch có tính khả thi cao, gắn với bảo đảm an ninh kinh tế trong tình hình mới. Xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Triển khai Nghị quyết, vùng Đông Nam Bộ đang tiếp tục xây dựng và phát huy hiệu quả các Khu kinh tế quốc phòng trên địa bàn vùng theo quy hoạch; hoàn thành đường tuần tra biên giới; phối hợp với Campuchia thực hiện phân giới cắm mốc trên đất liền và thúc đẩy phân định biên giới trên biển.

Bên cạnh đó, các địa phương trong vùng tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của vùng trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, góp phần bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và đối ngoại.

Là địa bàn trọng yếu ở dải đất miền trung, tại Quảng Ngãi, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thường xuyên được duy trì. Các công trình phòng thủ dọc tuyến ven biển và hải đảo được tiếp tục đầu tư xây dựng, tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ven biển thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh, khu vực biên giới biển.

Tận dụng ưu thế địa phương có sẵn, học tập kinh nghiệm các đầu tàu kinh tế của vùng, tăng cường liên thông kết nối về mọi mặt, mỗi tỉnh, thành phố đang có những hướng đi riêng để phát triển kinh tế, hòa chung vào thúc đẩy phát triển kinh tế vùng. Gần một năm sau khi Bộ Chính trị ban hành 6 Nghị quyết, các địa phương vẫn còn nhiều vướng mắc chưa thể tháo gỡ để hiện thực hóa Nghị quyết vào cuộc sống. Khó khăn còn nhiều, nhưng quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương rất lớn. Trên lộ trình ấy, vai trò của Nhà nước rất quan trọng để giúp các địa phương có được cơ chế, chính sách về mặt nguồn lực để cùng “cất cánh”.  

Ngày xuất bản: 29/10/2023
Tổ chức chuyên đề: Ngọc Thanh
Thực hiện chuyên đề: Văn Bắc - Việt Anh - Hồng Vân - Kiều Hương - Sơn Bách - Thiên Lam - Khánh Giang - Thành Đạt - Văn Toản - Văn Lúa - Công Lý - Hiển Cừ - Thành Châu - Trịnh Bình - Hữu Nghĩa - Thanh Tâm - Huy Thạch - Trung Hiếu - Bông Mai - Thi Uyên - Phạm Hà - Văn Toản - Thanh Tùng