Nước - Nguồn sống và nỗi lo chung
Năm 1953, tại Biển Bắc - Hà Lan, một cơn bão mạnh kết hợp với triều cường đã khiến mực nước dâng cao hơn 5,6 mét so với mức trung bình, hơn 400 điểm đê bị phá vỡ, 1.836 người thiệt mạng, 72.000 người phải sơ tán khẩn cấp, 200.000ha đất nông nghiệp chiếm tới 9% tổng diện tích nông nghiệp quốc gia này đã bị ngập trong nước mặn, và thiệt hại kinh tế ước tính lên đến khoảng 5 tỷ USD theo giá trị hiện nay. Sự kiện này đã phơi bày rõ nét những điểm yếu của hệ thống đê chắn cũ kỹ, đặc biệt khi Hà Lan phải bảo vệ một đường bờ biển phức tạp với tổng chiều dài lên đến 700 km.
Cách đó nửa vòng Trái Đất, ông Nhân, người nông dân ở Trà Vinh, Việt Nam đã rất lo lắng. Nước với ông vừa mang lại nguồn sống, nhưng cũng có thể là nguồn cơn cướp đi tất cả.
Hai câu chuyện, hai quốc gia đồng bằng, nhưng cùng một nỗi lo: biến đổi khí hậu đang biến nước thành mối đe dọa hiện hữu.
Hà Lan, quốc gia có hai phần ba lãnh thổ dưới mực nước biển, mang đến những bài học kinh nghiệm từ những trận lũ lịch sử. Việt Nam, với Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vựa lúa nuôi sống 17-20 triệu người, đang đứng trước nguy cơ chìm dần. Theo nghiên cứu từ dự án Rise&Fall, với sự tham gia của chuyên gia Hà Lan và Việt Nam, tốc độ sụt lún đất ở ĐBSCL dao động từ 1 đến 4,7cm mỗi năm. Cùng với hiện tượng nước biển dâng khoảng 1cm mỗi năm, trong 25 năm qua, châu thổ đã chìm xuống thấp hơn so với mực nước biển khoảng 18cm. Nghiên cứu của Đại học Utrecht và Wageningen (Hà Lan) năm 2019, đăng trên tạp chí khoa học Nature Communications, dự báo rằng nếu không thay đổi, phần lớn ĐBSCL - hiện chỉ cao trung bình dưới 1 mét so với mực nước biển - có thể chìm hẳn vào năm 2050. Điều này đe dọa sinh kế của 20 triệu cư dân, ảnh hưởng đến vai trò của châu thổ như trung tâm nông nghiệp toàn cầu, và thậm chí lan sang các khu vực của Thành phố Hồ Chí Minh.
Một trong những nguyên nhân gây ra sụt lún là hoạt động của con người. Khai thác nước ngầm quá mức cho trồng lúa, nuôi tôm và công nghiệp đã làm giảm áp lực nước dưới lòng đất, khiến các lớp trầm tích mềm được hình thành từ sông Mekong qua hàng thiên niên kỷ bị nén lại.
Đây là sự thật không thể phủ nhận: sụt lún làm trầm trọng thêm xâm nhập mặn, lũ lụt và suy thoái đất. Ở các tỉnh tại ĐBSCL, tốc độ lún cao hơn mức trung bình, biến những cánh đồng xanh thành vùng đất không thể canh tác lúa nước. ĐBSCL đang thiếu hụt nguồn bồi đắp, khiến tình hình càng nghiêm trọng.
Không chỉ sụt lún, lũ lụt và đô thị hóa đang tạo áp lực kép. Biến đổi khí hậu làm tăng tần suất thời tiết cực đoan: mưa lớn, bão mạnh hơn. Ở các thành phố như Thành phố Hồ Chí Minh, bề mặt bê tông và nhựa đường - những biểu tượng của đô thị hóa - ngăn nước thấm xuống đất, dẫn đến ngập úng nhanh chóng. Hệ thống thoát nước cũ kỹ bị quá tải, biến đường phố thành sông, tầng hầm thành hồ. Tương tự, Hà Lan từng đối mặt với trận lũ Biển Bắc năm 1953, cướp đi hơn 1.800 sinh mạng và nhấn chìm 9% đất nông nghiệp. Dù đã xây dựng được công trình trị thuỷ Delta Works làm cả thế giới thán phục, nhưng người Hà Lan vẫn quyết định chuyển từ chiến lược "ngăn nước" sang "sống chung với nước" - một kinh nghiệm mà Việt Nam đang học hỏi qua các dự án hợp tác.
Từ những công trình đê, kè và rào chắn bão khổng lồ của Delta Works - xây dựng sau thảm họa 1953 - Hà Lan từng nghĩ rằng có thể chinh phục nước bằng bê tông và thép. Nhưng lũ sông năm 1993 và 1995 đã thay đổi tất cả. Sông Rhine và Meuse dâng cao do mưa lớn từ Pháp và Đức, buộc hơn 200.000 người sơ tán theo lệnh phòng ngừa. Đó là lúc tư duy về giải pháp thuận thiên được đưa vào thực tế, với việc triển khai chương trình "Room for the River" (Không gian cho sông ngòi) năm 2007.
“Chúng tôi đang cho các sông của mình không gian cho riêng chúng. Chúng tôi khôi phục các vùng đồng bằng ngập lũ tự nhiên của sông ở những nơi ít gây hại nhất để ngăn chặn thiệt hại xã hội lớn hơn ở hạ lưu. Trong vài năm qua, biến đổi khí hậu đã làm tăng dòng chảy đỉnh ở các sông của chúng tôi. Lượng nước lưu trữ bổ sung được tạo ra bởi chương trình “Room for the river” (Không gian cho sông ngòi) đã tránh được lũ lụt lớn, đồng thời tạo ra lợi ích cho chất lượng môi trường sống.” - Ông Sander Carpaij nhận định - “Việc tích hợp thiên nhiên vào chính sách cũng rất quan trọng, vì quốc hội Hà Lan đã thông qua một chính sách khiến nước và đất trở thành nguyên tắc hướng dẫn trong tất cả các quyết định quy hoạch không gian của chúng tôi."
“Chính phủ của chúng tôi đã đầu tư hàng chục triệu euro vào chương trình kiến thức với các dự án thí điểm trên khắp Hà Lan, ở các cảnh quan khác nhau. Ví dụ, mười năm trước chúng tôi đã xây dựng một “Động Cơ Cát”. Đây là một loại bổ sung bãi biển tự nhiên. Chúng tôi đã thêm một lượng lớn trầm tích vào bờ biển. Các lực lượng tự nhiên của gió, sóng và thủy triều phân bố cát dọc theo bờ biển trong nhiều năm, ngăn chặn nhu cầu bổ sung bãi biển lặp lại. Điều này giúp duy trì các đụn cát bảo vệ bờ biển của chúng tôi khỏi lũ lụt. Trong hơn mười năm nay, nó đã củng cố bờ biển của chúng tôi một cách tự nhiên. Để nâng cao chất lượng của một phần biển khép kín của chúng tôi, giờ là một hồ, chúng tôi đã xây dựng các đảo nhân tạo gọi là Markerwadden. Những đảo này đã cải thiện chất lượng nước và giờ là nơi trú ẩn cho nhiều loài thực vật, chim và cá.”
Triết lý này không dừng ở sông lớn mà lan sang quản lý nước đô thị. Ở các thành phố Hà Lan, bề mặt không thấm nước như bê tông gây lũ quét. Từ đó, giải pháp sử dụng gạch và đá lát thấm nước, cho phép mưa thấm xuống đất, bổ sung nước ngầm và lọc ô nhiễm ra đời. Chúng còn giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị bằng cách cho nước bay hơi, làm mát không khí. Ngoài ra, Hà Lan tiên phong thiết kế không gian đa năng: quảng trường nước (waterpleinen) hoạt động như khu giải trí bình thường nhưng chứa nước mưa trong bão; bãi đậu xe ngầm làm hồ chứa khẩn cấp và xả từ từ sau đó.
Nhưng thách thức lớn nhất ở Hà Lan - và bài học cho Việt Nam - là sụt lún đất. Tương tự ĐBSCL, Hà Lan đối mặt với đất chìm do khai thác nước ngầm, khiến họ chuyển sang các giải pháp "xây dựng tại chỗ" như thúc đẩy tích tụ trầm tích.
Nước là nguồn sống bất tận
Dù có nhiều thách thức, song ông Nhân ở Trà Vinh cùng những người dân ở ĐBSCL, họ không phải đứng trước những nguy cơ một mình. Đảng và nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực quan tâm, tạo mọi điều kiện và chính sách hỗ trợ cho người nông dân trước những khó khăn, đặc biệt trước thực trạng biến đổi khí hậu. Từ năm 2013, Mekong Delta Plan - kế hoạch dài hơi đến năm 2100 do Hà Lan đề xuất - góp phần mang hy vọng đến ĐBSCL. Với 12 biện pháp ngắn và dài hạn, kế hoạch tập trung thích ứng: từ cải thiện đê chắn đến giải pháp linh hoạt như "Room for the River". “Nổi bật nhất là chúng ta cùng nhau phát triển Kế hoạch Đồng bằng sông Cửu Long (MDP), vốn thúc đẩy các mô hình phát triển dựa trên thiên nhiên, thân thiện với môi trường và bền vững với tầm nhìn dài hạn, với nguồn nước là chìa khóa để giải quyết các thách thức ở đồng bằng. Dựa trên điều này, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng Bằng Sông Cửu Long và Kế hoạch tổng thể khu vực cho giai đoạn 2021 - 2030, với tầm nhìn đến năm 2050 đã được thông qua, đặt nền tảng cho nhiều đầu tư ở Đồng Bằng Sông Cửu Long." - Ông Sander Carpaij bày tỏ.
Cũng trong những năm qua, Hà Lan đã hợp tác với các trường đại học ở Việt Nam, gửi hàng trăm sinh viên nhận học bổng đến TU Delft và Wageningen, áp dụng kiến thức vào dự án thực tế.
“Trong 30 năm, Đại học Công nghệ Delft đã hợp tác với Việt Nam cùng nhiều trường đại học phía Bắc. Có thể khẳng định rằng 15 năm hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan trong khuôn khổ đối tác chiến lược về thích ứng biến đổi khí hậu và tài nguyên nước đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận." - Bà Marijan Kreijns, Giám đốc, Làng Xanh, Đại học Công nghệ Delft chia sẻ.
Năm 2023, Hà Lan và Việt Nam kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Năm 2025 đánh dấu 15 năm thực hiện Thỏa thuận đối tác chiến lược về nước và biến đổi khí hậu.
Cùng là hai quốc gia sống dựa vào nước và cùng tích cực với các biện pháp chống biến đổi khí hậu, Việt Nam và Hà Lan đang cùng nhau biến thách thức thành cơ hội. Nước sẽ thành nguồn sống bất tận, nếu chúng ta hành động ngay hôm nay.
"Năm mươi hai năm trước, Việt Nam và Hà Lan chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đặt nền móng cho một quan hệ đối tác thân thiện và bền vững giữa hai quốc gia của chúng ta. Xây dựng dựa trên mối quan hệ vững mạnh này, vào ngày 4 tháng 10 năm 2010, Thủ tướng của hai nước chúng ta đã ký “Quan Hệ Đối Tác Chiến Lược Về Thích Ứng Biến Đổi Khí Hậu Và Quản Lý Nước”. Thỏa thuận này định nghĩa các mục tiêu chiến lược và lĩnh vực ưu tiên cho sự hợp tác giữa hai nước thông qua một khuôn khổ song phương dài hạn, không có ngày kết thúc, điều này rất đặc biệt, vì thông thường các thỏa thuận này là cho một khoảng thời gian xác định. Điều này có nghĩa là chúng ta hợp tác lâu dài. Sau 15 năm thực hiện, với sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả của Hà Lan, chúng ta có thể tự hào nói rằng Quan Hệ Đối Tác Chiến Lược của Việt Nam và Hà Lan đã đạt được những kết quả đáng kể và đóng góp quan trọng vào nỗ lực của Việt Nam trong thích ứng biến đổi khí hậu và quản lý nước.”
Về vấn đề hợp tác của Hà Lan và Việt Nam trong tương lai, Ông Sander Carpaij chia sẻ:
“Chúng tôi thấy ba lĩnh vực có tầm quan trọng lớn cho sự hợp tác của chúng ta. Một là tiếp tục hợp tác về quản lý nước ngầm, như đã đề cập ở trên. Một lĩnh vực khác là khả năng chống lũ, vì vậy việc xem xét các kịch bản khí hậu và dự đoán cách thức và nơi lũ lụt sẽ xảy ra, và từ đó cùng xác định các giải pháp đúng đắn, bao gồm các Giải Pháp Dựa Trên Thiên Nhiên, là con đường tiến tới. Chúng tôi có điều này ví dụ ở Thành Phố Thủ Đức, mang đến chuyên môn chính, và giờ với việc sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi làm việc với thành phố để phát triển thêm các biện pháp chống lũ chống chịu khí hậu. Nhưng điều này cũng có thể được thực hiện ở các khu vực nông thôn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.”